Sự kết thúc tốc độ tăng trưởng cao của Trung Quốc
Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đang đi xuống rõ rệt, do nhu cầu tiêu dùng thấp, nhập cảng nguyên liệu thô giảm, sản lượng nhà máy giảm, các vấn đề của phía cung, và giá nhập cảng tại nhà máy cao.
Bị đe dọa bởi nợ nần chồng chất và ngành địa ốc bên bờ vực khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đã giảm xuống mức chưa từng thấy trong nhiều thập kỷ.
Như với hầu hết các quốc gia, khi bắt đầu đại dịch vào đầu năm 2020, Trung Quốc đã phong tỏa nghiêm ngặt, và hoạt động kinh tế bị đình trệ. Nền kinh tế đã phục hồi dần, cho đến khi đạt đỉnh điểm vào tháng 03/2021. Kể từ đó, động lực kinh tế bị suy giảm. Tăng trưởng GDP trong quý 3 giảm xuống còn 4.9%, một trong những quý thấp nhất trong 30 năm qua.
Tín dụng tăng với tốc độ chậm nhất kể từ năm 2003 và đầu tư vào địa ốc vẫn còn yếu. Doanh số bán nhà giảm, cũng như các công trình xây dựng mới bắt đầu giảm. CPI-lạm phát thấp hơn dự kiến. Nhập cảng đã giảm. Một cuộc khủng hoảng năng lượng đã khiến một số nhà máy phải tạm dừng sản xuất. Và các đơn đặt hàng mới của nhà máy đã có xu hướng giảm trong 3 tháng qua.
Một chỉ báo tích cực là các nhà máy đã có đủ đơn đặt hàng cho quý đầu tiên của năm mới. Do đó, xuất cảng dự kiến sẽ không giảm đáng kể trong vài tháng tới. Tuy nhiên, xuất cảng đã trở thành một thành phần nhỏ hơn của nền kinh tế Trung Quốc. Ngoài ra, lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đang yêu cầu nền kinh tế phải hướng vào trong nước và tập trung vào tiêu dùng nội địa. Do đó, ngay cả nhà máy có đầy đủ đơn hàng, thì dự đoán trong quý đầu tiên của năm 2022 [vẫn] là sẽ không đủ để thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế.
Cả phía cầu và phía cung của nền kinh tế đều đang có dấu hiệu chậm lại. Các nhà hàng, dịch vụ ăn uống, và doanh số bán lẻ trong các cửa hàng thực tế đã chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong các đợt phong tỏa nghiêm ngặt của đại dịch năm 2020. Năm nay, việc tiếp tục chính sách không covid của ông Tập vẫn đang gây ra các đợt phong tỏa và hạn chế, các qui định này đang ngăn cản sự phục hồi của hoạt động bán lẻ, nhà hàng, dịch vụ ăn uống, phòng tập thể dục, và các dịch vụ khác như cắt tóc. Trong khi đó, niềm tin của người tiêu dùng vẫn chưa trở lại mức trước đại dịch, và mọi người thà tiết kiệm hơn là chi tiêu.
Khu vực dịch vụ là một trong những ngành sử dụng lao động lớn nhất, cung cấp việc làm cho 83% nhân viên ở một số thành phố. Với những đợt phong tỏa và hạn chế liên tục, rải rác, nhiều cá nhân và gia đình vẫn chưa thể phục hồi sau khi mất đi các khoản tiền tiết kiệm và tiền lương trong năm 2020. Ngại chi tiêu là một phản ứng hợp lý đối với những người không biết khi nào sẽ có đợt phong tỏa và mất thu nhập xảy đến tiếp nữa.
Sự suy giảm khả năng sản xuất của các nhà máy tác động đến bên cung. Điều này đã được dự đoán là do không có sẵn nguyên liệu, cũng như giá nguyên liệu thô tăng, thiếu hụt năng lượng và nhiên liệu, các chính sách không covid, các quy định về ô nhiễm của chính phủ, và thiếu tài chính. Do ngân hàng tăng hạn chế trong việc cho vay, đầu tư tài sản cố định giảm. Ngoài ra, nếu không có nguồn tài chính, lĩnh vực địa ốc có thể tiếp tục là lực cản lớn nhất đối với tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Doanh số bán xe hơi giảm, một phần là do phía cầu, bởi người tiêu dùng ngại bỏ tiền ra mua, và một phần [khác] do phía cung, bởi sự thiếu vi mạch đã làm giảm sản lượng. Một vấn đề khác từ phía cung là lạm phát xuất xưởng — giá sản phẩm tại nhà máy tiếp tục tăng. Giá cả hàng hóa cũng đang tăng lên, trong khi các biện pháp ngăn chặn ô nhiễm của chính phủ đang hạn chế sản xuất thép. Và, trong nỗ lực giảm lượng khí thải carbon, Bắc Kinh cũng đang hạn chế sản xuất nhiên liệu hóa thạch, vốn đã gây ra tình trạng thiếu hụt năng lượng, kìm hãm hơn nữa hoạt động của các nhà máy.
Khoảng cách giữa lạm phát của người sản xuất và người tiêu dùng ngày càng mở rộng khi các sản phẩm trở nên đắt hơn để sản xuất, nhưng các nhà sản xuất lại do dự trong việc tăng giá bán lẻ vì sợ làm giảm nhu cầu tiêu dùng vốn đã yếu.
Các biện pháp cải cách phía cung của Trung Cộng bao gồm giảm công suất dôi dư, đặc biệt là trong lĩnh vực địa ốc. Cũng có những sự hợp nhất làm giảm tỷ lệ tài sản trên nợ của các công ty. Tuy nhiên, các biện pháp này không giải quyết được các nguyên nhân căn bản của nợ và thậm chí còn có thể khuyến khích vay nhiều hơn, vì sau khi hợp nhất, uy tín tín dụng của công ty tăng lên.
Nguồn than giảm, cùng với giá tăng, đã khiến sản lượng kinh tế ở một số tỉnh giảm. Khi cảm thấy giá thị trường bị bóp méo, Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC) có thẩm quyền định giá đối với một số hàng hóa quan trọng. Giá than gần đây đã tăng vọt ở Trung Quốc do nhu cầu tăng, thiếu điện, và mùa đông đang tới, khiến giá tăng 260% so với năm trước. NDRC đã phản ứng bằng cách thiết lập giới hạn giá than.
Nói chung, nếu một chính phủ đặt giới hạn giá đối với một hàng hóa, thì giới hạn này sẽ gây ra tình trạng thiếu hụt, bởi vì người tiêu dùng sẽ muốn mua nhiều hơn và các nhà cung cấp sẽ muốn sản xuất ít hơn. Nhưng trong trường hợp của Trung Quốc và than đá, quốc gia này là một nước tiêu thụ than lớn đến mức Trung Quốc lại [cũng] là quốc gia định giá. Do đó, do Trung Cộng khống chế giá, và giá than trong khu vực đã giảm xuống. Giá than ở Newcastle, tiêu chuẩn về giá trong ngành này, đã giảm 30% hôm 01/11 do sự kiềm chế giá của Trung Quốc.
Khả năng của Trung Cộng trong việc tác động đến giá hàng hóa trên toàn cầu nhấn mạnh sự phụ thuộc cực độ của một số quốc gia—đặc biệt là các nước đang phát triển giàu tài nguyên—vào Trung Quốc trong toàn bộ nền kinh tế của họ. Tuy nhiên, bất chấp sự can thiệp của Trung Cộng, giá than vẫn tăng 160% so với năm ngoái, cho thấy rằng vẫn sẽ có lạm phát về giá ở Trung Quốc và trên thế giới.
Mọi thứ có vẻ tồi tệ đối với Trung Quốc, nhưng sẽ là quá sớm để tin rằng đây là dấu chấm hết cho vị trí nền kinh tế lớn thứ hai thế giới của nước này. Tuy nhiên, những sự tồi tệ này làm dấy lên nghi ngờ về khả năng không thể tránh khỏi của việc Trung Quốc thay thế Hoa Kỳ để giành vị trí hàng đầu. Các biện pháp trừng phạt và thuế quan thương mại của Mỹ vẫn được duy trì. Các công ty ngoại quốc đang rời bỏ Trung Quốc vì nhiều lý do, bao gồm cả chính sách không có khoan nhượng với Covid, khiến việc sản xuất và vận chuyển từ Trung Quốc trở nên khó khăn hơn.
Ngoại trừ sự sụp đổ hoàn toàn của ngành địa ốc và tài chính, dưới gánh nặng 5 ngàn tỷ USD nợ về địa ốc, 3.97 ngàn tỷ USD nợ thường xuyên của chính quyền địa phương, 7.8 ngàn tỷ USD cho chính quyền địa phương vay ngoại bảng, 540.79 tỷ USD nợ xấu, và 990.22 tỷ USD “khoản vay đặc biệt,” năm 2022 sẽ không đánh dấu sự kết thúc của nền kinh tế Trung Quốc, nhưng rất có thể sẽ đánh dấu sự kết thúc của sự phát triển siêu tốc của Trung Quốc. Trong nửa đầu năm tới, đầu tư địa ốc dự kiến sẽ giảm 10%. Và Bắc Kinh dự kiến sẽ chọn mục tiêu tăng trưởng khoảng 5.5%, trong khi nhiều nhà phân tích dự báo tăng trưởng GDP năm 2022 của Trung Quốc sẽ dưới 5%.
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
“Tiến sĩ Antonio Graceffo đã có hơn 20 năm làm việc tại Á Châu. Ông tốt nghiệp Đại học Thể thao Thượng Hải và có bằng Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh của Đại học Giao thông Thượng Hải của Trung Quốc. Ông Antonio là giáo sư kinh tế và nhà phân tích kinh tế Trung Quốc, người đã viết bài cho nhiều kênh truyền thông quốc tế. Một số cuốn sách về Trung Quốc của ông bao gồm “Beyond the Belt and Road: China’s Global Economic Expansion” (“Vượt Ra Ngoài Vành Đai và Con Đường: Sự Mở Rộng Kinh Tế Toàn Cầu của Trung Quốc”) và “A Short Course on the Chinese Economy” (“Một Khóa Học Ngắn Hạn về Kinh Tế Trung Quốc.”)
Chánh Tín biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times
Xem thêm: