Sách quốc ngữ – Chữ nước ta
Dưới đây là bài thơ giáo khoa do Tản Đà làm cho trẻ em lên sáu tuổi, viết năm 1919. Bài thơ đã 102 năm trôi qua, nhưng vẫn còn nguyên ý nghĩa về sự giáo dục con người.
Trước khi dạy trẻ yêu nước, yêu đồng bào, hãy dạy trẻ hiếu thuận với cha mẹ, kính quý thầy cô. Tất cả những cái “yêu” còn lại sẽ hình thành những điều tốt đẹp….!
Lên Sáu….!
Sách quốc ngữ – Chữ nước ta,
Con cái nhà – Đều phải học.
Miệng thì đọc – Tai thì nghe
Đừng ngủ nhè – Chớ láu táu
Con lên sáu – Đang vỡ lòng
Học cho thông – Thầy khỏi mắng.
Trong trời đất – Nhất là người
Ở trên đời – Hơn giống vật
Con bé thật – Chưa biết gì
Còn ngu si – Phải dạy bảo
Cho biết đạo – Mới nên thân
Sau lớn dần – Con sẽ khá
Ai đẻ ta – Cha cùng mẹ
Bồng lại bế – Thương và yêu
Ơn nhường bao – Con phải ngẫm
Áo mặc ấm – Mẹ may cho
Cơm ăn no – Cha kiếm hộ
Cha mẹ đó – Là hai thân
Hai thân là – Là thân nhất
Trong trời đất – Không ai hơn
Con biết ơn – Nên phải hiếu
Nghĩa chữ hiếu – Đạo làm con
Con còn non – Nên học trước
Đi một bước – Nhớ hai thân
Con còn nhỏ – Có mẹ cha
Lúc vào ra – Được vui vẻ
Con còn bé – Mẹ hay chiều
Thấy mẹ yêu – Chớ làm nũng
Đã đi học – Phải cho ngoan
Hay quấy càn – Là chẳng hiếu.
Con còn bé – Mẹ hay lo
Ăn muốn cho – Lại sợ độc
Con ốm nhọc – Mẹ lo thương
Tìm thuốc thang – Che nắng gió
Con nghĩ đó – Sao cho ngoan
Hay ăn càn – Là chẳng hiếu
Anh em ruột – Một mẹ cha
Mẹ đẻ ra – Trước sau đó
Cùng máu mủ – Như tay chân
Nên yêu thân – Chớ ganh tị
Em coi chị – Cũng như anh
Trước là tình – Sau có lễ
Người trong họ – Tổ sinh ra
Ông đến cha – Bác cùng chú
Họ nội đó – Là tông chi
Cậu và dì – Về họ mẹ
Con còn bé – Nên dạy qua
Còn họ xa – Sau mới biết
Người trong họ – Có bề trên
Lạ hay quen – Đều phải kính
Có khách đến – Không được đùa
Ai cho quà – Đừng lấy vội
Ông bà gọi – Phải dạ thưa
Phàm người nhà – Không được hỗn
Con bé dại – Mải vui chơi
Muốn ra người – Phải chăm học
Miệng đang đọc – Đừng trông ngang
Học dở dang – Đừng có chán
Học có bạn – Con dễ hay
Mến trọng thầy – Học chóng biết
Dạy con biết – Phép vệ sinh
Ăn quả xanh – Khó tiêu hoá
Uống nước lã – Có nhiều sâu
Áo mặc lâu – Sinh ghẻ lở
Mặt không rửa – Sinh u mê
Đang mùa hè – Càng phải giữ
Các giống vật – Thật là nhiều.
Như con hươu – Ở rừng cỏ
Như con chó – Nuôi giữ nhà
Con ba ba – Loài máu lạnh
Loài có cánh – Như chim câu
Còn loài sâu – Như bọ róm
Cây và cỏ – Có khác loài
Trông bề ngoài – Cũng dễ biết
Như cây mít – Có nhiều cành
Lúa, cỏ gianh – Có từng đốt
Còn trong ruột – Lại khác nhau.
Vài năm sau – Con biết kỹ
Đá bờ sông – Không sống chết
Không có biết – Không có ăn
Không người lăn – Cứ nằm đây
Như đá cuội – Như đá xanh
Như mảnh sành – Như đất thó
Các vật đó – Theo loài kim
Các loài kim – Tìm ở đất
Nhất là sắt – Nhì là đồng
Làm đồ dùng – Khắp trong nước
Như vàng bạc – Càng quý hơn
Đúc làm tiền – Để mua bán.
Ai có vạn – Là người giàu.
Vốn xưa là – Nhà Hồng Lạc
Nay tên nước – Gọi Việt Nam
Bốn nghìn năm – Ngày mở rộng
Nam và Bắc – Ấy hai miền
Tuy khác tên – Đất vẫn một
Lào, Miên, Việt – Là Đông Dương
Đầu trị nước – Đức Kinh dương
Truyển Hùng Vương – Mười tám chúa
Qua mấy họ – Quân Tàu sang
Vua Đinh hoàng – Khai nghiệp đế
Trải Đinh, Lý – Đến Trần, Lê
Nay nước ta – Là nước Việt
Chữ nước ta – Ta phải học
Cho trí óc – Ngày mở mang
Muốn vẻ vang – Phải làm lụng
Đừng lêu lổng – Mà hư thân
Nước đang cần – Người tài giỏi
Cố học hỏi – Để tiến nhanh
Vừa ích mình – Vừa lợi nước
Chớ lùi bước – Là kẻ hèn.
—————–
Tản Đà (Nghiêm Hàm ấn quán xuất bản, 1924 – Đinh Trực sưu tầm)
Xem thêm: