Rủi ro về địa chính trị và thị trường khi Afghanistan sụp đổ: Thêm xung đột với Trung Quốc
Vụ tấn công ngày 11/09 khiến gần 3,000 người thiệt mạng ở New York là một bất ngờ đối với tình báo Mỹ. Tương tự như vậy, sự sụp đổ nhanh chóng của Afghanistan trong những tuần qua là một bất ngờ, đến mức Hoa Kỳ và các đồng minh G7, những bên gặp nhau hôm thứ Ba (24/08/2021) để thảo luận về Afghanistan, nơi phụ thuộc vào sự hào phóng của Trung Quốc, Nga và Taliban để tiếp tục sơ tán khỏi Kabul. [Bị] bất ngờ và phụ thuộc, trong chiến tranh cũng như ở những nơi khác, dẫn đến thất bại.
Sự sụp đổ của Afghanistan vào năm 2021 được nhiều người coi là một thất bại của Mỹ và NATO, và sẽ có bốn tác động thị trường lâu dài: 1) áp lực toàn cầu tăng lên đối với chi tiêu quốc phòng; 2) áp lực toàn cầu tăng lên đối với chi phí năng lượng; 3) chuỗi cung ứng tách rời nhiều hơn; và 4) bất đồng trong nước gia tăng ở Hoa Kỳ và Âu Châu về việc tách khỏi Trung Quốc.
Hoa Kỳ và NATO đã tham gia và thất bại trong cuộc chiến, không chỉ do thất bại về tình báo, mà do sự thiếu quan tâm đến tài chính của Taliban và những nguyên nhân sâu xa. Taliban thu được tài chính từ việc sản xuất thuốc phiện ở Afghanistan, và từ các phần tử tình báo và quân đội Pakistan. Đến lượt mình, Pakistan đã thu được hàng tỷ USD tài trợ phát triển từ Trung Quốc, một quốc gia mà Hoa Kỳ chỉ mới bắt đầu công nhận là một đối thủ cạnh tranh nặng ký gần đây, chứ càng không phải là đối lập hay kẻ thù chiến lược. Hoa Kỳ và Anh tiếp tục tiếp cận Trung Quốc và Nga để “giúp đỡ” ở Afghanistan, đó là một sai lầm chiến lược. Yêu cầu sự ủng hộ của Trung Quốc và Nga có nghĩa là đưa ra những sự tán thành đáp lại, tưởng thưởng cho sự ủng hộ trong quá khứ của các quốc gia này đối với chủ nghĩa khủng bố và khuyến khích thêm hơn nữa trong tương lai.
Trung Quốc và Nga đã hỗ trợ Taliban thông qua vỏ bọc ngoại giao quan trọng, và có thể là thông qua tài chính và vật chất quân sự. Trung Quốc được hưởng lợi từ cuộc chiến của Taliban chống lại NATO vì cuộc chiến đã thu hút các khoản chi tiêu quốc phòng của Hoa Kỳ và đồng minh mà lẽ ra phải dành cho việc răn đe Trung Quốc. Thêm vào đó, Taliban đã khiến hình ảnh của Hoa Kỳ và NATO trở nên bất lực trên thế giới. Các quan chức ở Bắc Kinh có khả năng sẽ khui sâm panh trước sự hỗn loạn ở Kabul khi Hoa Kỳ và Anh không thể kiểm soát đám đông người Afghanistan đang muốn rời đi, chứ chưa nói gì đến kiểm soát toàn bộ đất nước. Sau 20 năm ở Afghanistan, hàng nghìn người chết, và hàng tỷ USD chi tiêu, chúng ta đã thất bại trong sứ mệnh xây dựng một nền dân chủ ổn định.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ và các đồng minh ít nhất đã đạt được những điều sau: thứ nhất, chúng ta loại bỏ và trừng phạt Taliban vì bảo vệ trùm khủng bố Osama bin Laden; thứ hai, chúng ta nâng cao uy tín cho khả năng răn đe của NATO; thứ ba, chúng ta đã thử nghiệm một hoạt động lớn của NATO lần đầu tiên; thứ tư, chúng ta đã làm suy thoái Taliban và lực lượng khủng bố ở Afghanistan trong 20 năm; và thứ năm, chúng ta đã giết Osama bin Laden.
Mang lại nền dân chủ cho Afghanistan, và do đó tạo ra một đồng minh mạnh mẽ ở một vị trí chiến lược của Trung Á, luôn là một mục tiêu phụ, nhưng là một mục tiêu đã thể hiện đạo đức, cơ sở lý luận, và chiến lược trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và NATO trên phạm vi rộng hơn. Tại sao chúng ta lại thất bại trong mục tiêu phụ này, và thất bại đó đang được sử dụng như thế nào để chống lại chúng ta?
Thứ nhất, việc xây dựng quốc gia ở một đất nước bị tàn phá bởi nhiều thập kỷ nội chiến là rất tốn kém. Thứ hai, chúng ta ngây thơ tin rằng những người Afghanistan nghèo khó với ít hoặc không có kinh nghiệm về dân chủ có thể áp dụng nó sau một vài năm và không cần phát triển các thể chế dân chủ bản địa của riêng họ. Thứ ba, chúng ta không trừng phạt Pakistan và Trung Quốc, những quốc gia ủng hộ Taliban về mặt quân sự, kinh tế và ngoại giao.
Cuối cùng, chúng ta đã thất bại trong việc vượt ra khỏi ranh giới của Afghanistan trong một cuộc chiến với các nguyên nhân liên khu vực, và do đó, cũng như với Chiến tranh Việt Nam, chúng ta đã không giải quyết được gốc rễ của cuộc xung đột.
Sự thất bại rõ ràng này của Hoa Kỳ sẽ khuyến khích các đối thủ của chúng ta, đặc biệt là những kẻ khủng bố Hồi giáo, Trung Quốc và Nga. Pakistan, quốc gia đã chiến thắng nhờ Taliban, sẽ được khích lệ trước đối thủ là Ấn Độ ngay cả khi nước này phải hứng chịu nhiều hơn từ chủ nghĩa khủng bố Taliban trong chính quốc gia của mình.
Khủng bố quốc tế gia tăng sẽ gây áp lực lên giá năng lượng, đặc biệt là dầu và khí đốt.
Trung Quốc, Nga, và các đồng minh [của 2 nước này] sẽ đáp trả bằng cách tăng chi tiêu quốc phòng và hoạt động đối ngoại ác ý hơn, bao gồm cả việc chiếm lãnh thổ và tấn công bất đối xứng vào các lực lượng và lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ. Trung Quốc có thể tìm cách xâm lược Đài Loan trong vòng 5 hoặc 10 năm tới. Nga có thể cố gắng chiếm phần còn lại của Ukraine hoặc Gruzia. Iran đang để mắt đến một hành lang xuyên Iraq và Syria tới Địa Trung Hải. Triều Tiên vẫn muốn chiếm Hàn Quốc và đe dọa Nhật Bản, có lẽ là do Trung Quốc xúi giục. Tất cả bốn quốc gia có thể phối hợp bằng cách phát động các cuộc xâm lược đồng thời. TÌnh huống này Hoa Kỳ sẽ không thể giải quyết một mình.
Vì vậy, Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy các đồng minh [của Hoa Kỳ] xây dựng chi tiêu quốc phòng đủ để ngăn chặn những hành động gây hấn này, vì Hoa Kỳ đang tập trung vào việc răn đe Trung Quốc. Hàn Quốc và Đài Loan không rõ liệu Hoa Kỳ có bảo vệ họ về mặt quân sự trước một cuộc xâm lược của Trung Quốc hay không, do Trung Quốc sở hữu vũ khí hạt nhân có thể tầm bắn tới lục địa Hoa Kỳ.
Israel và Ả Rập Xê-Út có thể sẽ tăng chi tiêu quân sự để răn đe Iran. Và các đồng minh Á Châu của Hoa Kỳ, bao gồm Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc, và Đài Loan, có khả năng sẽ tăng chi tiêu quân sự và có khả năng có được các biện pháp răn đe hạt nhân độc lập chống lại Trung Quốc.
Âu Châu, bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ tăng chi tiêu quân sự để răn đe Nga và Iran. Thổ Nhĩ Kỳ có thể tìm kiếm một biện pháp răn đe hạt nhân độc lập trong vòng 10 đến 20 năm tới.
Sau khi các đồng minh [của Hoa Kỳ] nhận thức được thất bại đơn phương của một loạt 4 tổng thống Hoa Kỳ, cũng như chủ nghĩa dân tộc trong đại dịch và sự gia tăng các rủi ro chính trị từ Trung Quốc, Nga, và Iran, các đồng minh của chúng ta có thể sẽ giảm thiểu rủi ro bằng cách tăng chi tiêu quốc phòng. Cũng sẽ có một sự thúc đẩy chính trị ở Hoa Kỳ và Âu Châu để tăng cường nguồn cung ứng hàng hóa chiến lược tại địa phương, mặc dù các chuỗi cung ứng hiện nay gắn kết với nhau đến mức sẽ rất khó khăn để loại bỏ sự phụ thuộc chiến lược vào Trung Quốc.
Anh khó chịu với Hoa Kỳ vì chủ nghĩa đơn phương của ông Biden và ông Trump trong việc rút khỏi Afghanistan, và đang tìm kiếm một sức mạnh quân sự mạnh mẽ hơn của Âu Châu mà nước này có thể nhờ tới khi không có Hoa Kỳ. Anh và Âu Châu có khả năng tăng chi tiêu quốc phòng và thể chế hóa các mối quan hệ quân sự chặt chẽ hơn, bao gồm cả ý tưởng của Tổng thống Pháp Macron về một lực lượng quân sự thường trực của EU, một ngày nào đó có thể tương đương với quân đội Hoa Kỳ về chi tiêu. Chi tiêu quân sự của EU tăng lên sẽ cải thiện an ninh quốc gia của Mỹ.
Tuy nhiên, tác động của việc chi tiêu đó đối với sự gia tăng phát triển quân sự của Âu Châu sẽ mất nhiều năm. Trong khi đó, lục địa này phụ thuộc quân sự vào Hoa Kỳ. Nhưng họ không hoàn toàn tin tưởng rằng Hoa Kỳ sẽ đứng ra bảo vệ mình nếu Nga xâm lược và có nguy cơ xảy ra chiến tranh hạt nhân.
Như đã nói, điều này cũng đúng với các đồng minh của Hoa Kỳ ở Á Châu. Nếu các đồng minh Á Châu của chúng ta đạt được các biện pháp răn đe hạt nhân độc lập mà không gây ra một cuộc chiến tranh phủ đầu do Trung Quốc phát động, thì vòng vây của các cường quốc hạt nhân bao quanh Trung Quốc có thể ổn định tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng chỉ được phần nào.
Khi vũ khí hạt nhân ngày càng phổ biến, những kẻ khủng bố Hồi giáo cảm thấy được khích lệ bởi những thất bại liên tiếp của Hoa Kỳ và NATO. Ví dụ, ở Iraq và Afghanistan, các nước này sẽ tăng cường các nỗ lực lâu nay để đạt được và sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Hoa Kỳ, Anh, Israel, hoặc Ấn Độ. Theo Giáo sư Graham Allison của Đại học Harvard, xác suất xảy ra một cuộc tấn công như vậy trong 10 năm, bao gồm cả việc sử dụng bom bẩn, là hơn 50%. Các cuộc tấn công như vậy chống lại Hoa Kỳ đồng thời có thể kết liễu chúng ta như một siêu cường và mở đường cho sự phát triển vượt bậc về kinh tế và quân sự của Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc được khuyến khích hỗ trợ các chính phủ bảo trợ khủng bố, đó chính xác là những gì họ làm trong việc hỗ trợ các quốc gia như Pakistan, Iran, và Triều Tiên.
Giống như ông Mao trong Đệ Nhị Thế chiến, ông Tập Cận Bình muốn đứng ra đánh một trận lớn tiếp theo, làm suy yếu kẻ thù của Trung Quốc và đồng minh, và sau đó giành chiến thắng mà không cần bắn nhiều phát bắn.
Trung Quốc sẽ coi thất bại ở Afghanistan là bằng chứng cho thấy Trung Quốc nói đúng về sự yếu kém của nền dân chủ và sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ sử dụng sự thất bại này như một sự khích lệ để khuyến khích các đồng minh Nga, Iran, Pakistan, và Triều Tiên về chủ nghĩa phiêu lưu quân sự nhiều hơn.
Trung Quốc đã vượt qua GDP của Mỹ vào năm 2017 khi xét theo sức mua. Trung Quốc đã sử dụng sự cung cấp miễn phí về an ninh của chúng ta ở Afghanistan và Iraq làm vỏ bọc cho việc mua quyền khai thác khoáng sản ở những quốc gia đó, bao gồm cả đồng và dầu.
Chiến tranh ở Afghanistan kết thúc sẽ tạo điều kiện cho Trung Quốc phát triển mỏ đồng Mes Aynak. Năm 2008, Trung Quốc đã ký hợp đồng với giá 2.9 tỷ USD, giấy phép có thời hạn 30 năm để khai thác và chế biến quặng đồng chất lượng cao từ khu vực này. Mes Aynak được cho là mỏ đồng lớn thứ hai thế giới, chứa khoảng 5.5 triệu tấn quặng. Taliban sẽ hợp tác với Trung Quốc trong việc khai thác mỏ bất chấp sự đàn áp của Trung Quốc đối với người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ vì Afghanistan của Taliban, giống như các quốc gia Hồi giáo khác, thường thích các nguồn thu của riêng họ hơn là sự đoàn kết của người Hồi giáo.
Đồng, dầu mỏ, và các tài nguyên thiên nhiên khác của Afghanistan sẽ chảy vào ngành công nghiệp và xuất cảng của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tìm cách duy trì hệ thống thương mại tự do quốc tế, từ đó họ được hưởng lợi rất nhiều, và vì vậy họ sẽ hỗ trợ các đồng minh của mình, bao gồm cả các tập đoàn của Hoa Kỳ và Âu Châu, tiếp tục thúc đẩy và tham gia vào mở cửa thương mại với Trung Quốc.
Sự thúc đẩy bền bỉ của Trung Quốc vào các thị trường phương Tây sẽ tiếp tục tạo ra xung đột giữa giới tinh hoa bên trong Hoa Kỳ, những người phần lớn ưa thích tự do thương mại [quốc tế], và các cử tri, những người ngày càng coi thương mại là hành động săn mồi và có hại đối với người dân trung bình. Điều này gây áp lực lên cả hai đảng chính trị ở Hoa Kỳ trong việc tiến hành thoát Trung, mặc dù việc này thường diễn ra chậm chạp và có nhiều kẽ hở. Thương mại Trung Quốc theo thời gian làm tăng sức mạnh của Trung Quốc và tích tụ rủi ro đối với dân chủ, các thị trường tự do, và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu.
Với sự trỗi dậy của Trung Quốc, vốn của Hoa Kỳ và Âu Châu ngày càng gặp rủi ro ngay cả khi một số nhà đầu tư được ưa thích với Trung Quốc thu được lợi nhuận ngắn hạn vượt trội. Những lợi nhuận đó có thể dựa trên các nguyên tắc gần với kế hoạch lừa đảo (ponzi), hơn là dựa trên các nguyên tắc cơ bản, với rủi ro chính trị và các yêu cầu công bố thông tin không rõ ràng có chủ đích và các công ty vỏ bọc (tức là các thực thể có lãi suất thay đổi-VIE) mà các khoản đầu tư thường thông qua đó chảy vào Trung Quốc.
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
Ông Anders Corr có bằng cử nhân/thạc sĩ khoa học chính trị tại Đại học Yale (2001) và tiến sĩ chính phủ tại Đại học Harvard (2008). Ông là thành viên chính của Corr Analytics Inc., nhà xuất bản của Tạp chí Rủi ro Chính trị, và đã thực hiện các nghiên cứu sâu rộng ở Bắc Mỹ, Âu Châu và Á Châu. Ông là tác giả của “Tập trung quyền lực” (sắp ra mắt vào năm 2021) và “Không xâm phạm”, đồng thời biên tập “Những quyền lực lớn, những chiến lược lớn.”
Chánh Tín biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times
Xem thêm: