Những thách thức đối với chuỗi cung ứng của Trung Quốc
Một cuộc khảo sát của Jabil, một công ty dịch vụ sản xuất có trụ sở tại Florida, cho thấy 78% chuỗi cung ứng đã bị gián đoạn do đại dịch.
18 tháng sau, các chuỗi cung ứng vẫn bị gián đoạn do tiếp tục các lệnh phong tỏa, thiếu container, thời tiết mùa đông, những cơn bão, các vụ cháy rừng, các đợt lũ lụt, các vụ cháy nhà máy, việc tắc nghẽn kênh đào Suez, và một loạt các lý do khác.
Những gián đoạn này đã gây ra sự thiếu hụt toàn cầu về chất bán dẫn và polyethylene (PE), polypropylene (PP), và monoethylene (MEG) được sử dụng để sản xuất chất dẻo. Nhựa có trong hầu hết mọi sản phẩm mà chúng ta sử dụng và việc thiếu nhựa đã dẫn đến những vụ đóng cửa nhà máy, tăng giá, và đình trệ sản xuất trong vô số ngành công nghiệp. Tình trạng thiếu hụt đang ảnh hưởng đến việc sản xuất mọi thứ, từ PPE, bao bì thực phẩm, thiết bị gia dụng, đồ nội thất, điện thoại thông minh và phụ tùng xe hơi cho đến thiết bị thể thao.
Tình trạng thiếu nguyên liệu tiền chất (hóa chất đầu vào) đã gây ra tình trạng thiếu vaccine của Trung Quốc. Neodymium, một nguyên liệu đầu vào để sản xuất nam châm được sử dụng trong AirPods và động cơ xe điện, đã được tinh chế ở Trung Quốc. Trung Quốc phong tỏa nhiều nhà máy lọc dầu, gây ra tình trạng thiếu hụt trên khắp thế giới. Tình trạng thiếu động cơ xe điện dẫn đến tác động khiến các nhà máy sản xuất xe điện ở các nước khác đóng cửa sản xuất, dẫn đến thất nghiệp, thiếu hụt [cung hàng hoá], và lạm phát giá cả.
Trước đại dịch, các chuỗi cung ứng toàn cầu đã được tạo ra để giữ cho chi phí sản xuất ở mức thấp và đầu tư cho hàng tồn kho ở mức tối thiểu. Với một chuỗi cung ứng đáng tin cậy, các công ty có thể duy trì một lượng hàng tồn kho nhỏ, đặt hàng các sản phẩm hoặc đầu vào mới thường xuyên, được cung ứng tiếp nhanh chóng.
Đại dịch đã khiến các công ty trên thế giới phải suy nghĩ lại về chuỗi cung ứng của họ. Giờ đây, khi các công ty đã trải qua những sự gián đoạn, trước hết, các công ty muốn lập kế hoạch sao cho tránh được sự gián đoạn trong tương lai, bằng cách xây dựng khả năng chống đỡ của chuỗi cung ứng. Đối với nhiều người, xây dựng lại chuỗi cung ứng có nghĩa là không còn phụ thuộc vào Trung Quốc. Trong số 150 nhà sản xuất được National Law Review khảo sát, 43% đã chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc.
Hoạt động sản xuất sử dụng nhiều lao động được thực hiện ở Trung Quốc dẫn đến sự gián đoạn, vì việc phong tỏa do COVID trong các khu vực ở Trung Quốc thường ngăn cản công nhân đến nhà máy, đồng thời ngăn tài xế chở hàng đến các bến cảng. Và bản thân các bến cảng đôi khi đã bị đóng cửa. Do đó, trước việc lập kế hoạch sau đại dịch của nhiều công ty quốc tế, ngành sản xuất thâm dụng lao động đã trở thành mục tiêu tái cấu trúc.
Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia như Nhật Bản, Đài Loan, và Singapore đã tham gia vào lĩnh vực sản xuất thấp cấp, thâm dụng lao động. Các quốc gia này đã đầu tư rất nhiều vào việc cải thiện nguồn vốn con người của họ và cuối cùng là tiến lên trong chuỗi giá trị, thực hiện loại hoạt động sản xuất thâm dụng công nghệ, nâng cao đáng kể mức sống của người dân. Trong khi Trung Quốc đang cố gắng tiến lên [trong] chuỗi giá trị, tỷ trọng xuất cảng thâm dụng lao động của nước này đã tăng từ 13.9% năm 2000 lên 26.9% năm 2018. Để duy trì tính cạnh tranh, Trung Quốc đã giữ mức lương cho ngành sản xuất thấp một cách giả tạo, nhưng mức lương ở Trung Quốc hiện [vẫn] là bội số của tiền lương trong lĩnh vực sản xuất ở Việt Nam, Thái Lan, hoặc Indonesia.
Trung Quốc là nước xuất cảng lớn nhất thế giới, nhưng phần lớn hàng hóa xuất cảng từ Trung Quốc thực sự được sản xuất bởi các công ty từ các nước khác. Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung áp dụng cùng một mức thuế đối với các sản phẩm đến từ Trung Quốc, bất kể là nhà máy của Trung Quốc đóng tại quốc gia nào sản xuất chúng. Mức thuế cao, các lệnh trừng phạt kinh tế đối với các sản phẩm từ Tân Cương, chi phí lao động tăng, luân chuyển nhân viên cao, phong tỏa do COVID, và lo ngại về việc phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc đang khiến các nhà sản xuất nước ngoài rời bỏ Trung Quốc.
Một cuộc khảo sát của Phòng Thương mại Mỹ cho thấy 29% các công ty Hoa Kỳ nói rằng họ đang chuyển một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Các nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng sản xuất từ Đài Loan, Hàn Quốc, và Nhật Bản đang rời đi với số lượng lớn hơn. Tờ Financial Times đưa tin, hàng trăm nghìn công ty Đài Loan đang có ý định rời Trung Quốc. Chính phủ Nhật Bản đưa ra các biện pháp khuyến khích tài chính để thu hút các công ty Nhật Bản rời khỏi Trung Quốc, vì lo ngại về mặt an ninh của việc quá phụ thuộc vào Trung Quốc. Do đó, các ngành công nghiệp nhạy cảm như dược phẩm và chất bán dẫn đã được khuyến khích chuyển đến Nhật Bản hoặc Đông Nam Á.
Hoa Kỳ đã áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các sản phẩm nhập cảng từ Tân Cương vì các báo cáo về lao động nô lệ. Do đó, người mua Hoa Kỳ đang tìm kiếm các thị trường khác để nhập cảng. Nhà sản xuất điện tử Đài Loan, Delta, đã giảm 90% nhân viên của họ, nói rằng Trung Quốc không còn là nơi sản xuất tốt nữa. Các nhà máy của ngoại quốc tại Trung Quốc hiện đang phải trả lương cho lao động Trung Quốc cao hơn nhiều, đồng thời phải đối mặt với thuế quan và lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ, trong khi đó, Trung Cộng tiếp tục phong tỏa sản xuất hoặc vận chuyển do COVID.
Trung Quốc đã thực hiện một cách tiếp cận không khoan nhượng đối với COVID, phong tỏa toàn bộ các thành phố khi chỉ có một vài trường hợp được phát hiện. Sự không khoan nhượng này đang khiến các nhà đầu tư e dè với chứng khoán Trung Quốc. Nó cũng khiến các nhà sản xuất miễn cưỡng dựa vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc
Do sự bùng phát COVID, vào nhiều thời điểm khác nhau, Trung Quốc đã hủy bỏ các chuyến bay, phong tỏa các thành phố và các khu vực, đồng thời đình chỉ hoạt động thương mại dọc theo bờ biển. Cảng Diêm Điền, cách Hồng Kông khoảng 50 dặm về phía bắc, đã ngừng hoạt động gần một tuần. Khi mở cửa trở lại, cảng này hoạt động dưới công suất, khiến một lượng lớn container tồn đọng, tràn sang các cảng container ở Thâm Quyến và Quảng Châu. Các công ty vận tải biển cảnh báo khách hàng của họ rằng giá vận chuyển đã tăng đột ngột, vì thời gian chờ đợi tại các cảng này có thể lên tới 16 ngày.
Giá cước vận chuyển đã tăng đáng kể trên khắp thế giới. Một trong những mức tăng gây kinh ngạc nhất là tuyến đường từ Thượng Hải đến Rotterdam, Hà Lan, đã tăng vọt 534%. Tình trạng tồn đọng các tàu container ở Á Châu đã khiến các cảng của Hoa Kỳ, đặc biệt là ở California, ngập trong container. Tất cả những vấn đề này đã dẫn đến tình trạng khan hiếm hàng tồn kho và giá cước vận chuyển tăng.
Để tự bảo vệ mình khỏi những gián đoạn trong tương lai, các công ty đang áp dụng chiến lược “Trung Quốc cộng một”, chuyển ít nhất một số công ty sản xuất tại Trung Quốc của mình sang Đông Nam Á hoặc Ấn Độ. Các công ty Hoa Kỳ cũng đang đánh giá hoạt động sản xuất nào có thể được chuyển đến Mexico, và sau đó nhập cảng vào Hoa Kỳ, miễn thuế quan, theo NAFTA. Dù là Đông Nam Á hay Mexico, các chiến lược logistics mới sẽ phải được phát triển, vì các nền kinh tế này không phát triển như Trung Quốc. Ví dụ ở Việt Nam, có thể cần phải xây dựng đường xá hoặc trả tiền cho hệ thống điện và lưới điện nước để kéo dài đến nhà máy.
Kết nối với các cảng có thể có khó khăn và công nghệ bên trong các cảng sẽ không ở mức tương tự như ở Trung Quốc. Các cảng của Trung Quốc hoạt động hiệu quả và công suất lớn, có khả năng tiếp nhận các tàu container lớn nhất. Ngoài ra, Trung Quốc có các dịch vụ vận chuyển đường biển trực tiếp đến các thị trường trên thế giới. Mặt khác, một số công ty đã trải qua 18 tháng gián đoạn chuỗi cung ứng, sự gián đoạn này không thể tốt cho lợi nhuận của một công ty.
Mặc dù một số người có thể tin rằng các lệnh phong tỏa và hạn chế COVID cuối cùng sẽ biến mất, nhưng mức lương cao, các biện pháp trừng phạt, và thuế quan thì có thể sẽ không. Ngoài ra, tùy thuộc vào trạng thái hiếu chiến tiềm ẩn đối với các chất bán dẫn hoặc các loại thuốc cứu mạng, sự hiếu chiến này nên được coi là mối quan tâm an ninh đối với các quốc gia như Hoa Kỳ hoặc Nhật Bản. Do đó, có vẻ như sẽ là cẩn trọng nếu các công ty chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc, thưởng cho các đồng minh đáng tin cậy ở Đông Nam Á, chẳng hạn như Việt Nam, giúp các quốc gia đó phát triển, đồng thời giảm chi phí sản xuất dài hạn. Cuối cùng, sự chuyển rời này sẽ làm tăng độ tin cậy của chuỗi cung ứng.
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
Tiến sĩ Antonio Graceffo đã có hơn 20 năm làm việc tại Á Châu. Ông ấy tốt nghiệp Đại học Thể thao Thượng Hải và có bằng MBA Trung Quốc của Đại học Giao thông Thượng Hải. Ông Antonio làm giáo sư kinh tế và nhà phân tích kinh tế Trung Quốc, viết cho nhiều phương tiện truyền thông quốc tế. Một số cuốn sách về Trung Quốc của ông bao gồm “Vượt ra ngoài vành đai và con đường: Sự mở rộng kinh tế toàn cầu của Trung Quốc” và “Khóa học ngắn hạn về kinh tế Trung Quốc.”
Bình Hòa biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times
Xem thêm: