Nhìn về lịch sử lâu dài của cuộc bầu cử sơ bộ và thành tích chiến thắng ở New Hampshire
Cuộc bầu cử sơ bộ ở New Hampshire có thành tích gây ấn tượng trong việc lựa chọn những ứng cử viên đề cử chung cuộc. Các nhà quan sát cho rằng đó là do tỷ lệ cao số cử tri không đảng phái và đi bỏ phiếu của tiểu bang.
Cuộc bầu cử sơ bộ tổng thống đầu tiên trên toàn quốc của New Hampshire có hai ý nghĩa. Cùng với việc đi đầu trong tiến trình này của quốc gia, Tiểu bang Granite (tên gọi khác của tiểu bang New Hampshire) là tiểu bang đầu tiên tổ chức một cuộc tranh cử sơ bộ mà trong đó cử tri, chứ không phải các viên chức trong đảng, quyết định chọn một ứng cử viên tổng thống.
Đầu tiên trên toàn quốc
Người quản lý Thư viện tiểu bang New Hampshire Michael York cho biết, trong phần lớn lịch sử chính trị của Hoa Kỳ, tiến trình bầu cử sơ bộ này được giao cho các đảng phái chính trị. Hiến Pháp không nói gì về các đảng phái vì ngay từ đầu hầu hết các Tổ phụ lập quốc đều phản đối các đảng phái.
Ông York cho biết, vào thế kỷ 19, khi các đảng phái xuất hiện và trở nên có tổ chức hơn, họ sẽ chọn ứng cử viên của mình bằng những thỏa thuận bí mật theo khuôn mẫu.
Ông Andrew Smith, giám đốc Trung tâm Khảo sát của Đại học New Hampshire, nói với The Epoch Times rằng các cuộc bầu cử sơ bộ đầu tiên xuất hiện ở vùng Trung Tây vào khoảng đầu thế kỷ 20. Wisconsin tổ chức bầu cử sơ bộ đầu tiên vào năm 1908, sau đó có sự tham gia của Minnesota và Indiana. New Hampshire bắt đầu tổ chức bầu cử sơ bộ vào năm 1916.
Trong một cuộc phỏng vấn với The Epoch Times, ông York cho biết rằng, khi mọi người bắt đầu bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử sơ bộ, họ sẽ bỏ phiếu chọn ra các đại biểu — những người xuất chúng ở địa phương — những sẽ tham dự đại hội đảng, và cam kết với một ứng cử viên hoặc không cam kết trong việc lựa chọn một ứng cử viên đề cử cho chức tổng thống.
Ông Smith cho biết, từ năm 1920 New Hampshire bắt đầu vượt lên khi Indiana từ bỏ vị thế là tiểu bang tiến hành bầu cử sơ bộ đầu tiên trên toàn quốc. Ông nói rằng, thời điểm đó, các cuộc bầu cử sơ bộ không quan trọng và mọi người không quan tâm đến nữa.
Mọi thứ bắt đầu thay đổi vào những năm 1950 với sự xuất hiện của truyền hình. Ông York cho biết ngày diễn ra bầu cử sơ bộ sớm ở Hampshire và địa điểm bầu cử gần các trung tâm truyền thông của New York và Hoa Thịnh Đốn khiến nơi đây trở thành một địa điểm tự nhiên cho các phóng viên và chính trị gia ghé thăm. Ông Smith cho biết những gì được biết đến như là cuộc thi sắc đẹp, bắt đầu vào năm 1952, mới chính là điều mà người ta thực sự quan tâm.
Trong khi cử tri vẫn chọn đại biểu của đảng, vào năm 1952, luật tiểu bang đã thay đổi, cho phép họ bỏ phiếu cho bất kỳ ứng cử viên tổng thống nào mà họ thích nhất. Ông Smith cho biết rằng, kết quả của cuộc bầu cử không mang tính ràng buộc này đã được đưa tin rộng rãi như một làn gió chính trị.
Sự thành công của cuộc thi sắc đẹp đó đã thúc đẩy các tiểu bang khác cho phép bỏ phiếu chọn người được ưa thích trong cuộc bầu cử sơ bộ của họ. Đến năm 1956, ở New Hampshire và các cuộc bầu cử sơ bộ ở các tiểu bang khác, cuộc thi sắc đẹp chuyển sang hình thức bỏ phiếu trực tiếp cho một ứng cử viên.
1968
Không còn nghi ngờ gì nữa, sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử bầu cử sơ bộ tổng thống ở New Hampshire là cuộc tranh cử của Đảng Dân Chủ năm 1968. Trong một cuộc phỏng vấn với The Epoch Times, bà Linda Fowler, một giáo sư danh dự về chính phủ tại Đại học Dartmouth, cho biết kết quả của cuộc bầu cử sơ bộ năm 1968 đã buộc đương kim Tổng thống Lyndon B. Johnson không tái tranh cử.
Bà Fowler, người chuyên về chính trị New Hampshire và chính trị Hoa Kỳ nói chung, cho biết cuộc bầu cử sơ bộ được tổ chức vào tháng 03/1968 diễn ra trong bối cảnh lịch sử Hoa Kỳ rất hỗn loạn.
Tổng thống John F. Kennedy bị ám sát năm 1963, Tổng thống Johnson lên nắm quyền. Năm 1967, cái gọi là Mùa hè Nóng bức Kéo dài của các cuộc bạo loạn chủng tộc xảy ra trên khắp Hoa Kỳ, và phong trào dân quyền đang diễn ra đã đạt đến đỉnh điểm. Cùng năm đó, hiện tượng Mùa hè Tình yêu đã bắt đầu ở San Francisco.
Trong suốt nhiệm kỳ của mình, chính phủ Tổng thống Johnson đã mở rộng ồ ạt sự tham gia của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam. Tính đến cuối năm 1967, hơn 485,000 binh sĩ Hoa Kỳ đã tham chiến. Cuộc tấn công Tết Mậu Thân bắt đầu vào tháng 01/1968.
Với sự bất mãn rộng khắp và sự thay đổi xã hội trong bối cảnh đó, Tổng thống Johnson thậm chí còn không có tên trong lá phiếu ở New Hampshire. Bà Fowler kể rằng, khi nhận ra cơ hội này, Nghị sĩ lâu năm Eugene McCarthy của tiểu bang Minnesota, một ứng cử viên phản chiến, đã bước vào cuộc đua ở New Hampshire.
Bà Fowler cho biết ông McCarthy đã thúc đẩy Đảng Dân Chủ tổ chức chiến dịch ghi tên thêm vào lá phiếu (write-in) cho Tổng thống Johnson. Ông đã giành chiến thắng sít sao, nhưng thành tích này vừa đủ kém để thuyết phục cựu Tổng Chưởng lý Robert F. Kennedy tham gia cuộc tranh cử.
Bà Fowler cho biết, việc suýt thất bại ở New Hampshire, ứng cử viên mới, và áp lực ngày càng gia tăng của cuộc chiến đã buộc Tổng thống Johnson phải tuyên bố sẽ không tái tranh cử cũng như không chấp nhận đề cử. Thay vào đó, phó tổng thống của ông, ông Hubert Humphrey, tham gia cuộc tranh cử và tập hợp các đại biểu đã cam kết với ông trước đó.
Hơn nữa, bà Fowler cho biết, những sự kiện hỗn loạn trong cuộc tranh cử của Đảng Dân Chủ năm 1968 đã tạo thêm áp lực lên các đảng chính trị trong việc mở rộng hệ thống bầu cử sơ bộ và tước bỏ quyền lực khỏi đại hội của họ.
Ông Robert F. Kennedy bị ám sát vào tháng 06/1968, khi ông đang đứng thứ hai sau ông Humphrey về số đại biểu cam kết. Nghị sĩ South Dakota lâu năm George McGovern đã xuất hiện thay thế ông.
Điều này dẫn đến một đại hội đầy cạnh tranh, trong đó Đảng Dân Chủ cuối cùng đã chọn ông Humphrey làm người được đề cử và Nghị sĩ lâu năm của Maine Edmund Muskie làm người liên danh tranh cử của ông. Hội nghị ở Chicago đã bị hủy hoại bởi giao tranh nội bộ bên trong tòa nhà và sự đàn áp gây thương vong những người biểu tình phản chiến bên ngoài.
Các ứng cử viên Đảng Dân Chủ tiếp tục để thua một người chiến thắng khác ở New Hampshire: Tổng thống Richard Nixon.
Bầu chọn tổng thống
Ngoài việc củng cố quyền lực của các tiểu bang khác trong việc trực tiếp bày tỏ sự ưa thích của họ dành cho một ứng cử viên tổng thống, so với các cuộc họp bầu ở Iowa, New Hampshire thường là một chỉ số đáng tin cậy hơn về việc ứng cử viên nào sẽ thực sự giành được đề cử.
Bà Fowler cho biết bà tin rằng mặc dù New Hampshire là một tiểu bang có đa số người da trắng và thuộc giai tầng trung lưu đến thượng lưu, nhưng hệ thống bầu cử sơ bộ của tiểu bang này mang tính đại diện cho một cuộc tổng tuyển cử nhiều hơn so với các tiểu bang khác. Bà cho rằng đó là bởi vì đây là cuộc cạnh tranh mở, cho phép những người được gọi là cử tri không đảng phái đã ghi danh bỏ phiếu trong các cuộc tranh cử của Đảng Cộng Hòa hoặc Đảng Dân Chủ.
Nói chung, bà cho rằng các cuộc bầu cử sơ bộ là phi dân chủ. Họ có rất nhiều lựa chọn và ứng cử viên chiến thắng thường chỉ giành được 30% phiếu bầu. Các cuộc bầu cử sơ bộ ở New Hampshire có tỷ lệ cử tri đi bầu cao hơn và có nhiều cử tri độc lập tham gia hơn, mà điều này làm đối trọng với cuộc bỏ phiếu mang tính ý thức hệ hơn của cử tri đã cam kết của đảng.
Không bao gồm những người đương nhiệm, cử tri New Hampshire đã chọn người chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử hoặc các đại biểu đã cam kết với họ vào các năm 1932, 1952, 1960, 1968, 1976, 1980, 1988, và 2016. Cử tri của tiểu bang này ủng hộ ứng cử viên đề cử chung cuộc của cả hai đảng vào năm 1960, 1968, 1976, 1980, 1988, 2000, 2004, 2008, 2012, và 2016.
New Hampshire đã chọn ứng cử viên đề cử chung cuộc của Đảng Cộng Hòa trong ba cuộc tranh cử gần đây nhất mà tổng thống đương nhiệm không tìm kiếm đề cử: Nghị sĩ lâu năm của Arizona John McCain năm 2008, Thượng nghị sĩ Mitt Romney (Cộng Hòa-Utah) năm 2012, và cựu Tổng thống Donald Trump vào năm 2016.
Ông York cho biết New Hampshire có kỷ lục quá cao khi chọn tổng thống và ứng cử viên đề cử chỉ vì tiểu bang này đã tồn tại quá lâu. Tuy nhiên, ông cho rằng các hoạt động chính trị địa phương nhắm tới từng cử tri trong quá khứ và chi tiêu cho truyền thông đại chúng hiện nay luôn đóng vai trò quan trọng trong việc gây ảnh hưởng đến các cử tri có tư tưởng độc lập ở New Hampshire.
Đồng ý quan điểm với bà Fowler, ông Smith cho biết cử tri thông thường ở New Hampshire không mấy quan tâm đến chính trị và họ ra quyết định tương đối muộn trong chu kỳ bầu cử. Điều này phù hợp hơn với những gì diễn ra trong một cuộc tổng tuyển cử.
Ông Smith cho biết việc ở gần Boston như hầu hết các cư dân của Tiểu bang Granite này có nghĩa là truyền thông đại chúng ngày càng trở nên quan trọng hơn trong khi vai trò của các chiến dịch vận động đến từng nhà và các cuộc gặp gỡ cử tri giảm dần. Ông nói, việc các ứng cử viên bay đến Manchester, New Hampshire, vận động tranh cử một chút rồi rời đi trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.
Ông Smith cho rằng, những ngày vận động tranh cử như ông McCain đã làm khi ông thực sự sống ở tiểu bang này vào năm 2000 và một lần nữa vào năm 2008 đang đến hồi kết. Ngày nay, các ứng cử viên cần phải chi rất nhiều trên thị trường truyền thông Boston để giành chiến thắng ở New Hampshire.
Ông Smith nói rằng cử tri Mỹ và các ứng cử viên sẽ bị thiệt hại nặng nề hơn vì điều đó. Những câu hỏi hóc búa tại các buổi gặp gỡ cử tri sẽ giúp các chính trị gia hiểu được những điều mà người Mỹ bình thường đang quan tâm và giúp các ứng cử viên có khả năng ứng biến tốt hơn.
Ông Smith và ông York cho biết cuộc bầu cử sơ bộ tổng thống ở New Hampshire là một phần văn hóa của tiểu bang và là niềm tự hào của một trong những thành viên nhỏ nhất của liên minh này.
Bà Fowler tự hỏi cuộc bầu cử sơ bộ sẽ kéo dài bao lâu.
Bà cho biết cuộc đua này đã trở nên ít quan trọng hơn khi ngày càng có nhiều ứng viên bỏ cuộc trước và sau cuộc họp bầu ở Iowa. Cuộc tranh cử năm 2024 bị ảnh hưởng nhiều bởi nhiệm kỳ sắp tới của Tổng thống Trump, đồng nghĩa với việc Tiểu bang Granite này sẽ chỉ xem xét ba ứng cử viên quan trọng cho đề cử của Đảng Cộng Hòa. Năm 2016, tám ứng cử viên hàng đầu của Đảng Cộng Hòa đã tranh cử. Vào năm 2020, con số tương tự đã xuất hiện trên các lá phiếu của Đảng Dân Chủ ở New Hampshire.
Bà nhận định rằng, nhìn chung, các cuộc bầu cử sơ bộ mang đến những điều tồi tệ nhất trên truyền thông chính trị. Vì các ứng cử viên có quan điểm gần giống về chính sách nên giới truyền thông trở nên quá tập trung vào những khác biệt nhỏ và các cuộc thăm dò thường không đáng tin cậy. Bên ngoài New Hampshire, tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu thường thấp và bị thúc đẩy bởi phe cánh về hệ tư tưởng nhất trong các đảng.
Bà Fowler nói rằng, Đảng Dân Chủ đang có dấu hiệu rõ ràng rằng họ không còn muốn đặt tiến trình lựa chọn của họ vào tay hai tiểu bang người da trắng ở nông thôn nữa.
Một năm 2020 thảm khốc và tiến trình họp bầu mới ở Iowa cho thấy Đảng Dân Chủ đang rời xa Tiểu bang Hawkeye (tên gọi khác của Iowa), bà Fowler nói. Tổng thống Joe Biden thậm chí còn không xuất hiện trên lá phiếu ở New Hampshire vào năm 2024, bà cho biết, điều đó cho thấy Ủy ban Quốc gia Đảng Dân Chủ không muốn liên quan gì đến New Hampshire nữa.
Với việc cuộc tranh cử năm 2024 hầu như ít quan trọng hơn đối với Đảng Cộng Hòa, bà Fowler cho biết có thể sẽ cần một kết quả gây bất ngờ để duy trì các cuộc bầu cử sơ bộ ở New Hampshire. Điều này càng thêm bấp bênh nếu cựu Tổng thống Trump thắng, như hầu hết mọi người mong đợi.
Nguyễn Lê biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times