Nhiễm nấm giết chết hàng triệu người, nhưng có rất ít phương pháp điều trị hiệu quả
Nhiễm nấm xâm lấn hiện đang giết chết hàng triệu người và có xu hướng gia tăng. Vậy vì sao các nhà khoa học không phát triển các phương pháp điều trị hiệu quả để giảm thiểu rủi ro cho những người bị suy giảm miễn dịch?
Phần lớn chúng ta nghĩ nhiễm nấm giống như nhiễm trùng nấm men hoặc bệnh nấm da chân—thường có biểu hiện là ngứa ngáy và khó chịu nhưng vô hại và tương đối dễ điều trị. Tuy nhiên, có nhiều loài nấm ẩn nấp trên khắp thế giới, nhắm vào những người có hệ thống miễn dịch suy yếu. Khi xâm nhập vào cơ thể con người, những loại nấm này có thể kháng lại các loại thuốc kháng nấm tiêu chuẩn và thường gây bệnh nặng hoặc tử vong.
Gần đây, Candida auris đang trở nên phổ biến hơn trên khắp Hoa Kỳ và thế giới với số người tử vong ngày càng tăng. Candida auris rất khó phát hiện qua xét nghiệm máu. Sau khi được chẩn đoán xác định thì việc điều trị có thể gặp khó khăn do những sai lầm từ điều trị không phù hợp vì chẩn đoán sai trước đó và khả năng lây nhiễm để trốn tránh và kháng thuốc của loại nấm này.
Những người dễ bị nhiễm Candida auris là bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch như bệnh nhân tiểu đường, những người được cấy ghép nội tạng hoặc mô, những người dùng thuốc ức chế miễn dịch và bất kỳ ai đang hóa trị. Nấm Candida auris có tính chất cơ hội, đặc biệt là trong môi trường bệnh viện và có thể xâm nhập vào cơ thể thông qua ống thông xâm lấn, máy thở hoặc trong quá trình phẫu thuật.
Candida auris dễ dàng lây lan từ người này sang người khác vì có thể sống trên da mà không có triệu chứng. Candida auris cũng dễ lây lan trên các bề mặt của bệnh viện (ví dụ: giường và thiết bị) khi chúng được làm sạch không đúng cách. Một đợt bùng phát năm 2018 tại đơn vị chăm sóc đặc biệt của Bệnh viện Đại học Oxford ở Vương quốc Anh được xác định là do thiết bị đa dụng gây ra, bao gồm cả nhiệt kế dùng để đo nhiệt độ dưới nách.
Candida auris và các mầm bệnh nấm chết người khác, chẳng hạn như Aspergillus và Pneumocystis, chịu trách nhiệm cho ít nhất 13 triệu ca nhiễm trùng và khoảng 1.5 triệu ca tử vong mỗi năm, tỷ lệ tử vong tương tự như bệnh lao, HIV, sốt rét và ung thư vú.
Căn bệnh nhiễm nấm chết người này đã gia tăng đều đặn trong 50 năm qua, với tỷ lệ tử vong toàn cầu tương đương với tỷ lệ của một số căn bệnh nan y nhất, nhưng vì sao các nhà khoa học không phát triển các phương pháp điều trị hiệu quả để giảm thiểu rủi ro cho những người bị suy giảm miễn dịch?
Câu trả lời liên quan đến những thách thức về khoa học và kinh tế.
Những thách thức về mặt khoa học trong điều trị và ngăn ngừa nấm
Có hàng trăm loại kháng sinh khác nhau được sử dụng để điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn và thuốc kháng virus cũng ngày càng hiệu quả trong việc chống lại virus, rút ngắn các triệu chứng và tăng cường hệ thống miễn dịch. Nhưng việc phát triển các loại thuốc để điều trị nhiễm nấm có thể phức tạp vì nấm có cùng loại tế bào với tế bào của người, vì vậy một chất được tạo ra để tiêu diệt nấm có thể nhắm nhầm vào tế bào người. Nhiều loại thuốc chống nấm có hiệu lực cao, vì vậy nếu chúng tấn công tế bào người, chúng có thể gây tổn thương thận hoặc gan, nhất là khi khi sử dụng trong thời gian dài.
Tình trạng kháng thuốc kháng nấm
Một thách thức khác là xu hướng nhiễm nấm này trở nên kháng lại một số loại thuốc có tác dụng. Có một số lý do tại sao những bệnh nhiễm trùng này có thể tạo ra khả năng kháng thuốc kháng nấm.
- Lạm dụng thuốc: Bỏ qua liều lượng, ngừng điều trị quá sớm hoặc sử dụng liều lượng quy định quá thấp có thể làm tăng khả năng kháng thuốc trị nấm của nấm.
- Thuốc diệt nấm: Nhiều loại thuốc diệt nấm được sử dụng để bảo vệ cây trồng, khiến nấm tiếp xúc với nhiều loại thuốc diệt nấm hơn, chắc chắn sẽ tạo ra sự kháng thuốc. Những người làm việc gần gũi hoặc ăn các loại cây trồng được sử dụng thuốc diệt nấm có thể trở nên dễ bị kháng thuốc chống nấm hơn.
- Kháng thuốc lan truyền: Một người có thể truyền nấm kháng thuốc cho người khác, ngay cả khi họ chưa bao giờ sử dụng thuốc kháng nấm.
- Điều trị kéo dài: Một số bệnh nhiễm nấm cần điều trị kéo dài. Nấm tiếp xúc với thuốc chống nấm càng lâu thì càng có nhiều khả năng phát triển khả năng kháng thuốc.
- Chẩn đoán sai loại nấm: Khi một loại nấm bị chẩn đoán sai và điều trị bằng thuốc chống nấm sai, loại nấm lây nhiễm có thể trở nên mạnh hơn.
- Kháng thuốc tự phát: Nấm ngừng đáp ứng với thuốc kháng nấm hiệu quả trước đây mà không rõ lý do.
Việc lựa chọn thuốc chống nấm bị hạn chế và trở nên kém hiệu quả hơn vì nấm có cách phát triển lén lút để chống lại các phương pháp điều trị hiện tại.
Các loại thuốc mới có triển vọng đang được phát triển, nhưng cần được nghiên cứu bổ sung về độ an toàn và hiệu quả
Liệu pháp miễn dịch đang phát triển
Liệu pháp miễn dịch đã được sử dụng trong nhiều năm để chống lại ung thư thành công bằng cách dạy cho hệ thống miễn dịch để tìm và tiêu diệt các tế bào ung thư.
Zeeshan Afzal, một bác sĩ thú y có nền tảng về khoa học lâm sàng và có nhiều kinh nghiệm về bệnh nấm, nói với The Epoch Times: “Một ví dụ về liệu pháp miễn dịch đối với nhiễm nấm xâm lấn là các kháng thể đơn dòng được thiết kế để nhắm mục tiêu và vô hiệu hóa các tế bào nấm một cách cụ thể.”
Bác sĩ Afzal cho biết ông tin rằng một phương pháp tiềm năng khác là sử dụng các cytokine, các phân tử báo hiệu hệ thống miễn dịch phản ứng với các bệnh nhiễm nấm này. “Nghiên cứu đang được tiến hành và đã có một số phát hiện đầy hứa hẹn trong lĩnh vực này.”
Vaccine phòng ngừa nấm cũng đang trong giai đoạn phát triển
Hiện có hơn 25 loại vaccine ngừa nhiễm nấm trên toàn thế giới, nhưng không loại nào có thể bảo vệ những bệnh nhân dễ bị tổn thương, suy giảm miễn dịch khỏi nhiễm nấm.
Karen Norris, người có bằng tiến sĩ về khoa học y sinh và vi sinh học, đồng thời là thành viên của Trung tâm vaccine và miễn dịch học của Đại học Georgia, đang nghiên cứu để tìm ra một loại vaccine bảo vệ chống lại các mầm bệnh nấm chịu trách nhiệm cho hơn 80% các ca nhiễm nấm gây tử vong.
Sẽ không có vaccine sớm vì các thử nghiệm trên người có thể sẽ tiếp tục trong 5 năm tới.
Những thách thức về kinh tế trong điều trị và ngăn ngừa nấm
Nhiễm nấm gây thiệt hại cho hệ thống chăm sóc sức khỏe hàng triệu đô la mỗi năm. Theo nghiên cứu được công bố trên Open Forum Infectious Diseases, vào năm 2018, đã có 666,235 ca nhiễm nấm được chẩn đoán ở Hoa Kỳ. Chi phí nhập viện ước tính có liên quan trực tiếp là 6.7 tỷ đô la, với tổng chi phí là 37.7 tỷ đô la cho tất cả các lần khám có chẩn đoán nhiễm nấm.
Cuối cùng, nhiễm nấm làm tăng gấp đôi chi phí cho bệnh nhân, thời gian nằm viện và nguy cơ tử vong ở những bệnh nhân được coi là có nguy cơ.
Tuy nhiên, có rất ít cuộc nói chuyện giữa các phương tiện truyền thông hoặc các quan chức chính phủ về việc giải quyết vấn đề nhức nhối này ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới.
Lý do rất có thể là những bệnh nhiễm nấm gây chết người và tốn kém này chủ yếu nhắm vào những bệnh nhân bị suy giảm khả năng miễn dịch. Tỷ lệ tử vong đối với nhóm dân số có nguy cơ này được ước tính là hơn một triệu người mỗi năm, nhưng các công ty dược phẩm có thể không có động cơ tài chính để tài trợ cho nghiên cứu và phát triển các loại thuốc, liệu pháp hoặc vaccine hiệu quả.
Trong khi việc phát triển các phương pháp điều trị nấm hiệu quả có thể làm giảm chi phí chăm sóc y tế vốn gần như không bền vững ở Hoa Kỳ, các công ty dược phẩm đang tìm kiếm lợi nhuận. Dennis Dixon, người đứng đầu nghiên cứu về vi khuẩn và nấm tại Viện Y tế Quốc gia, nói với Vox vào ngày 2/03 rằng: “Sẽ cần một người nào đó phát triển thị trường khó khăn đó để sản phẩm này tiếp tục phát triển.”
Kết luận
Căn bệnh do nhiễm nấm xâm lấn và thường gây chết người đang tiếp tục hoành hành trên những người bị suy giảm miễn dịch trên toàn cầu. Khoa học tồn tại để phát triển các loại thuốc chống nấm tốt hơn, liệu pháp miễn dịch và vaccine hiệu quả. Thật không may, việc phát triển các loại thuốc chống nấm rất tốn kém và bệnh nhân chỉ dùng chúng trong một thời gian ngắn, điều đó có nghĩa là lợi tức đầu tư cho các công ty dược phẩm tương đối thấp- nếu họ đầu tư.
Và cũng có một mô hình mà các công ty dược phẩm đã chứng kiến sau khi phát triển các loại kháng sinh mới để điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn kháng thuốc. Thông thường, các bác sĩ không muốn kê đơn thuốc kháng sinh mới vì sợ tác dụng phụ và góp phần làm tăng thêm tình trạng kháng thuốc, vì vậy họ tiếp tục kê đơn thuốc cũ.
Lan Hoa biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times