Người phụ nữ yếu đuối nhẫn nhục chịu đựng, cuối cùng cải biến nửa cuộc đời
Vào thời nhà Thanh, có một vị quan võ ở Lư Châu, người ta quên danh tính của ông, vì ông thích đeo khăn đội đầu màu đỏ nên người ta gọi ông là Giáng Trách Sinh. Người đàn ông này thông minh, hào hiệp, không quản ngại gian nguy khi gặp chuyện bất bình.
Một mùa hè nọ, vì có việc phải đến Lục An, ông vội vàng đi mãi cho đến khi ánh trăng bao phủ, vừa lạc đường vừa không tìm được chỗ nghỉ nên đành mệt mỏi cưỡi ngựa đi tiếp. Lúc này đột nhiên mây đen và mưa bão kéo đến, ông nhìn thấy có một số ngôi nhà đá thấp ở bên đường, bèn buộc ngựa vào cây rồi đi vào một căn để trú mưa.
Một lúc sau thì mưa tạnh, nhưng xung quanh vẫn còn tối mịt. Lúc này, ông nghe thấy tiếng sột soạt từ căn nhà đá đối diện, sau đó thấy một người thò đầu ra khỏi nhà. Người này để tóc xõa và lưng trần, trong tay cầm một cái bát hứng nước mưa từ mái nhà xuống. Đột nhiên có một tia chớp lóe lên, ông nhìn thấy người đó hình như là một phụ nữ.
Giáng Trách Sinh tính tình táo bạo, ông lặng lẽ rút kiếm, kiễng chân đến gần cố gắng tìm hiểu. Người kia phát hiện có người thì liền vội vàng lùi lại. Giáng Trách Sinh vươn tay giữ một nắm tóc của cô ta, hét lớn: “Ngươi là người, hay là ma? Nói nhanh, tránh làm vấy bẩn thanh kiếm của ta!”. Người kia toàn thân run lên, run rẩy nói rằng: “Là người”.
Giáng Trách Sinh lại hỏi: “Người thì tại sao lại ẩn náu ở một nơi như thế này?”. Người phụ nữ ngượng ngùng không nói, mặt lộ vẻ xấu hổ.
Dưới sự tra hỏi liên tục của Giáng Trách Sinh, người phụ nữ đã tiết lộ thân thế của mình: “Tôi vốn là người Trừ Châu, mẹ mất khi sinh ra tôi, cha tôi bị mù và giỏi về bói toán, đã sưu tầm được một số sách về xem quẻ toán mệnh. Hai năm trước, có một gia đình quý tộc nhờ người đến tận cửa để nói chuyện mai mối, muốn cưới tôi về làm thiếp. Người này vốn là lúc đi Kim Lăng để tham dự khoa cử, khi ngang qua Trừ Châu thì nhìn thấy tôi ở gần nhà tôi.
Cha tôi không đồng ý cuộc hôn nhân này, ông thường nghe thấy người ta khen tôi xinh đẹp, nên mong tôi lấy được một gia đình tử tế, chứ không phải đi làm thiếp. Tôi từ nhỏ đã xem bộ sách của cha, cũng học được một chút thuật số, biết rằng mình bạc mệnh, nên đã xin cha đồng ý cho cuộc hôn nhân này. Tôi nghĩ dù làm thiếp nhưng bên kia dù sao vẫn là gia tộc có gia có thế. Người mai mối đã tốn rất nhiều tiền để lấy lòng cha tôi để ông tác thành cuộc hôn nhân này.
Sau khi thi xong, chồng tôi đưa tôi về nhà. Người vợ cả nhìn thấy tôi thì sắc mặt rất khó chịu, suốt hơn một năm sau đó không cho phép tôi được gần chồng, coi tôi như nô tỳ trong gia đình, nhục mạ tôi khắp nơi.
Chính là ba ngày trước, người vợ cả nhờ tôi chải đầu giúp, tôi nhất thời chải hơi mạnh, cô ấy mắng tôi, nói rằng tôi mang tâm mưu hại, cầm gậy không ngừng đánh vào người tôi. Chồng tôi lúc ấy ở bên cạnh thầm thở dài, không biết làm thế nào. Lúc đó tôi muốn tự vẫn, nhưng lại không cam tâm. Sau việc này, tôi đã dùng tiền đồng để bói một quẻ, bói được “Độn chi cấu”, quẻ nói rằng: “Kiên băng phán xuân, mạch lộ phùng thân. Noãn hoàn thạch toái, thế cựu canh tân”. Khi đọc đi đọc lại quẻ này, tôi cảm thấy cuộc đời còn có sinh cơ, tương lai có lẽ sẽ tuyệt địa hồi sinh, vậy nên quyết định tạm thời nhẫn nhịn, chờ đợi cơ hội.
Sáng hôm sau, tức là ngày hôm kia, trong lúc trang điểm cho người vợ cả, tôi sơ ý làm rơi chiếc kẹp tóc bằng ngọc bích của cô ấy, chiếc kẹp tóc bằng ngọc đó rơi xuống đất. Cô ấy rất tức giận, trách tôi cố tình làm vỡ chiếc kẹp tóc bằng ngọc bích, khiến cô ấy gặp xui xẻo. Bởi vì chiếc kẹp tóc bằng ngọc là món quà hồi môn của cha mẹ cô ấy, nó không chỉ rất quý giá mà còn liên quan đến vận mệnh cả đời. Cô ấy tức giận hất tóc tôi, kéo tôi, bắt tôi quỳ trên nền đất thô ráp, bắt tôi lột quần áo rồi dùng roi quất tới tấp vào người tôi. Sau trận đòn roi, cô ấy hét lên và bắt tôi phải đền cho cô ấy một chiếc kẹp tóc bằng ngọc tương tự trong vòng một ngày. Nếu không làm được thì đừng hòng sống!
Tôi không có tiền, làm sao có thể đền được? Vì sợ hãi tột độ, tôi đã lẻn ra ngoài và trốn trong căn nhà đá này”.
Giáng Trách Sinh nghĩ rằng cô ta một thân trong nơi hoang vắng cũng không thể sống được mấy ngày, nên đã thuyết phục cô quay trở về. Nhưng cô thà chết cũng không chịu về, và để lộ cánh tay ra cho ông xem. Trên cánh tay đó là những vết sẹo cũ lẫn mới, thật sự khiến người ta không đành lòng. Giáng Trách Sinh lập tức lòng đầy căm phẫn, nguyện ý nhận cô là muội muội của mình. Ông nghĩ ra một cách giải quyết, sau khi thương lượng thì bảo cô cứ trốn trong căn nhà đó.
Trời vừa sáng, Giáng Trách Sinh đã phi nước đại đến nhà cô gái. Sau khi gia nhân thông báo, hai vợ chồng nọ cùng ra đón khách.
“Chào hai vị, đột nhiên quấy rầy rồi, ngu đệ phụng lệnh của cha đến đây thăm em gái”.
Nghe ông giới thiệu xong, người vợ cả cao ngạo nhìn ông nói: “Em gái ngươi không ở đây, trong nhà chúng ta cũng không có thân thích bần cùng như ngươi”.
Giáng Trách Sinh tức giận, vung kiếm chém ngã một cây liễu lớn trước sân, chỉ tay về mấy người đó và quát lớn: “Kẻ nào dám không cho ta gặp em gái, ta sẽ đối phó giống như thế này!”
Lúc này, những người hàng xóm chung quanh cũng đã vây quanh họ. Những người hàng xóm vốn rất phẫn nộ đối với hành vi ngược đãi tàn nhẫn thường ngày của người vợ cả đối với tiểu thiếp, nên đều thay người thiếp kêu oan. Vừa nghe tin anh trai của người thiếp đã đến, họ đều xúm lại náo nhiệt xem, và không ngừng trách mắng người vợ cả. Giáng Trách Sinh nghe hàng xóm bàn luận, càng tức giận nói: “Nếu không gặp được em gái, ta trước sẽ phá nhà ngươi, sau đó đưa ngươi đi gặp quan viên!”. Nói xong liền đấm một quyền, tạo ra một lỗ thật to trên bức tường dày.
Đôi vợ chồng thấy vậy thì hết sức sợ hãi, cầu xin hàng xóm can ngăn, đồng thời sai người đi tìm người thiếp, vài người hàng xóm cũng chạy theo tìm.
Rất không dễ mới tìm thấy cô ấy trong căn nhà đá, nhưng người thiếp vẫn sợ hãi cực độ, không dám quay về.
Những người hàng xóm nói với cô: “Anh trai của cô tới rồi! Cô có một anh trai lực lưỡng như vậy, còn sợ người phụ nữ đó sao!”
Cô ấy giả vờ hỏi: “Anh trai tôi thật sự đến rồi sao?”. Họ liền nói: “Ai còn lừa người phụ nữ đáng thương như cô! Anh trai cô vừa đến, nhìn không thấy cô, liền dùng kiếm chém đổ một cây dương liễu lớn, ra một cú đấm xuyên thủng bức tường dày. Hai lần như vậy đã làm cho chồng cô và người phụ nữ đó hoảng sợ rồi, liệu cô ta còn dám ăn hiếp cô nữa sao?”
Dưới sự thuyết phục của mọi người, người thiếp trở về nhà, nhìn thấy Giáng Trách Sinh thì hệt như nhìn thấy người thân, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, bật khóc nức nở. Không ai trong số những người có mặt nghi ngờ việc họ là huynh muội, mấy người hàng xóm đều nhiệt tình đến an ủi họ.
Đôi vợ chồng vội dặn dò gia nhân chuẩn bị một bữa tiệc thịnh soạn để tiếp đãi. Người vợ cả thấy gió chuyển thuyền, hạ mình ân cần tiếp đãi vị khách không mời mà đến. Họ để Giáng Trách Sinh ở lại ba ngày, từ đầu đến cuối đều đối đãi như khách quý.
Vào ngày Giáng Trách Sinh rời đi, đôi vợ chồng đã chuẩn bị tiệc rượu, đồng thời tặng ông một phần hậu lễ. Giáng Trách Sinh nói với mọi người rằng: “Ta ra ngoài tòng quân vào năm 15 tuổi, muội muội ta sống với người cha bị mù. Không ngờ muội muội vô tri lại bị lừa trở thành thiếp, từ khi xuất giá cũng chưa quay về nhà. Ta về nhà chưa được bao lâu thì cha đem chuyện muội muội xuất giá kể cho ta, rồi bảo ta qua xem xem. Đến đây rồi, không thể tưởng tượng được rằng em ấy lại bị ngược đãi như vậy!”
Vừa nói, ông vừa kéo tay của “muội muội”, vén tay áo lên cho mọi người xem những lớp sẹo trên cánh tay đó. Ông không kìm được nước mắt mà nói: “Ai mà không có anh em? Ai có thể bằng lòng khi thấy anh em bị cắt xẻo như thế này! Món nợ này, ta tạm thời sẽ ghi nhớ. Bây giờ trước mặt tất cả mọi người nói rõ lời này: Từ nay trở đi, nếu cặp vợ chồng này lại dám ăn hiếp muội muội của ta, dám động vào em ấy dù chỉ một sợi tóc, ta nhất định sẽ giải quyết cả nợ cũ nợ mới, lúc đó thì đừng trách ta là vũ nhân lỗ mãng nhé!”.
Những người hàng xóm đều nói: “Câu này rất có lý, tất cả chúng tôi đều sẵn lòng làm chứng”. Đôi vợ chồng cũng cúi đầu nhận tội, đồng thời xin Giáng Trách Sinh mang về một lá thư, bảo cha vợ đừng lo lắng về việc này.
Sau khi Giáng Trách Sinh rời đi, gia đình này thực sự đã sống trong hòa bình, người thiếp không bao giờ bị người vợ cả bắt nạt nữa. Mỗi lần Giáng Trách Sinh thuận đường đi ngang qua, ông đều ở đó hai đêm, như thể họ hàng thân thích vậy. Một năm sau, người vợ cả bị ngạt thở mà chết, người thiếp được lên làm chính thất, phu thê hai người cũng rất hòa thuận.
Người thiếp cuối cùng đã lĩnh ngộ được rằng, cái gọi là “kiên băng phán xuân” trong quẻ là chỉ âm đi dương hồi, đông qua xuân tới, ý tứ là khổ tận cam lai, sau đắng cay sẽ là ngọt bùi. “Mạch lộ phùng thân” là nói đến việc vô tình gặp gỡ Giáng Trách Sinh, trở thành anh em kết nghĩa, vì nàng mà ra tay tương trợ. “Noãn hoàn thạch toái”, là chỉ người vợ cả như hòn đá, người thiếp như quả trứng, tuy trứng không chọi được đá, nhưng số phận sớm đã an bài, người vợ cả đã mất sớm, còn người thiếp vẫn còn sống. “Thế cựu canh tân” là chỉ người mới sẽ thay thế người cũ, ý tứ không thể rõ ràng hơn nữa.
Những điều nói đến trong quẻ đều đã ứng nghiệm, thật là vi diệu! Nếu một người có thể nhẫn chịu tủi nhục và gánh nặng, thì cuối cùng người đó sẽ có thể vượt qua khó khăn trong cuộc sống và chuyển hóa nghiệp chướng của chính mình. Trong ma nạn nhất định đừng dễ dàng bỏ cuộc!
Tư liệu gốc: “Lý thừa” của Hứa Phụng Ân thời Thanh
Cổ Dung biên tập
Xuân Hoàng biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ
Xem thêm: