Nghiên cứu ước lượng tổng miễn dịch với virus Trung Cộng tại Texas gần 70% dân số
Theo các nhà nghiên cứu từ Hệ thống Đại học Texas, gần 70% người dân Texas được ước tính có khả năng miễn dịch hoàn toàn, có thể là tự nhiên hoặc miễn dịch do vaccine tạo ra, đối với virus Trung Cộng từ ngày 04/07/2021.
Nghiên cứu vẫn chưa được bình duyệt này là “ước tính đầu tiên dựa trên dữ liệu đầy đủ về khả năng miễn dịch toàn bộ đối với SARS-CoV-2” tại Texas.
Nghiên cứu liên quan đến việc đánh giá dữ liệu huyết thanh học, trong khoảng thời gian 1 tuần, của hơn 14,000 mẫu máu từ 10,482 người tham gia trên khắp Texas bắt đầu từ ngày 30/09/2020.
Sau đó, một cuộc khảo sát ước tính tỷ lệ huyết thanh trong dân số được điều chỉnh theo độ tuổi về nhiễm trùng tự nhiên được tiến hành và kết hợp với dữ liệu chích ngừa đã được xác định ở cấp độ dân số của Bộ Y tế Texas kể từ ngày 04/07/2021, để có được ước tính chính xác về tổng số miễn dịch ở cấp tiểu bang.
Các nhà nghiên cứu ước tính rằng người dân Texas có kháng thể tự nhiên chống lại virus Trung Cộng là 35.3% và tổng khả năng miễn dịch ước tính là 69.1%, có nghĩa là gần “70% dân số được hưởng lợi từ một số mức độ bảo vệ khỏi sự tái nhiễm từ SARS-CoV-2 và miễn dịch thu được sau hồi phục COVID-19.”
SARS-CoV-2 là tên khoa học của virus Trung Cộng, vốn gây ra bệnh COVID-19.
Các tác giả của nghiên cứu này cho biết họ không tính khoảng tin cậy cho toàn bộ khả năng miễn dịch “vì tỷ lệ được chích ngừa là một số lượng dân số (cố định) đã biết chứ không phải là một ước tính, và do đó tự nó không là một phép ước tính thay đổi.”
Ngoài ra, họ cũng lưu ý rằng tổng số ước tính miễn dịch cao hơn nhiều so với dữ liệu từ tiểu bang. “Chúng tôi kết luận rằng tỷ lệ lưu hành huyết thanh của SARS-CoV-2 cao hơn bốn lần so với các trường hợp COVID-19 đã được tiểu bang xác nhận (8.8%).”
Tỷ lệ huyết thanh là tỷ lệ phần trăm những người trong dân số có kháng thể với một loại virus cụ thể.
Nghiên cứu dựa trên các giả định rằng việc tái nhiễm với COVID-19 trong vòng vài tháng sau khi hồi phục là rất hiếm, các kháng thể trung hòa được phát triển sau khi nhiễm bệnh tự nhiên kéo dài ít nhất 5 tháng và vaccine COVID-19 cung cấp một phản ứng kháng thể hợp lý trong thời gian dài.
Một hạn chế của nghiên cứu là nhân khẩu học của những người tham gia có thể không phải là một đại diện chính xác của tiểu bang. Khoảng 69% nhóm nghiên cứu là nữ, 88.9% da trắng và độ tuổi trung bình là 45.9 tuổi.
Theo các nhà nghiên cứu, phương pháp chi tiết được áp dụng trong nghiên cứu có thể được nhân rộng ở bất kỳ tiểu bang hoặc khu vực nào để giúp đưa ra các quyết định hoạch định chính sách liên quan đến virus.
Các tác giả viết, “Trái ngược với các phương pháp tiếp cận dựa trên mô hình, nghiên cứu hiện tại sẽ cho phép các nhà nghiên cứu và sở y tế tính toán các ước tính của khu vực về tổng miễn dịch theo cách thức ít sai lệch nhất.”
Biết được tỷ lệ lưu hành thực sự của đại dịch, bao nhiêu người đã bị nhiễm bệnh và có khả năng miễn dịch là chìa khóa quan trọng giúp các nhà khoa học hiểu được liệu khả năng miễn dịch cộng đồng có khả thi hay không.
Miễn dịch cộng đồng là khi trong một nhóm dân số có đủ số người miễn dịch với một căn bệnh—thông qua nhiễm trùng tự nhiên hoặc chích ngừa—điều này làm cho khả năng lây bệnh từ người sang người khó xảy ra và bảo vệ những người chưa có miễn dịch.
Tỷ lệ dân số cần thiết để đạt được khả năng miễn dịch cộng đồng đối với COVID-19 đã thay đổi nhiều lần trong đại dịch từ 70% lên 85% và 90%. Nhưng hiện nay một số chuyên gia đang nói rằng khái niệm miễn dịch cộng đồng là không thể đạt được do biến thể Delta gây bệnh cho các cá thể đã được chích ngừa.
Ông Andrew Pollard, Giám đốc Nhóm vaccine Oxford cho biết tại Nhóm nghị sĩ toàn đảng trong buổi điều trần bằng chứng về virus Corona hôm 10/03, “Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ở trong tình huống ở đây với biến thể hiện tại, nơi mà khả năng miễn dịch theo cộng đồng là không thể vì [biến thể Delta] vẫn lây nhiễm cho các cá thể đã được chích ngừa.”
Giáo sư Pollard, người đã tham gia vào việc phát triển vaccine Oxford-AstraZeneca COVID-19, cũng nói rằng chính sách công cần được hướng vào việc ngăn ngừa tử vong và nhập viện. Ông không ủng hộ việc chích mũi tăng cường thứ ba.
Ông nói, “Và nếu có điều gì xảy ra, bây giờ chúng ta không cần tập trung vào điều gì có thể ngăn cản các biến thể mới bởi vì tôi không nghĩ rằng chúng ta có bất kỳ cơ sở nào để kiểm soát điều đó.”
“Chúng ta cần tập trung vào việc suy nghĩ về cách chúng ta dự phòng tử vong hoặc nhập viện… Hiện tại chúng ta đã khai triển hơn bốn tỷ liều vaccine trên toàn cầu, và đó là liều lượng đủ để ngăn chặn hầu hết những trường hợp tử vong đó và tử vong lại vẫn đang tiếp tục xảy ra.”
Giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) bà Rochelle Walensky nói với CNN vào tuần trước rằng mặc dù vaccine tiếp tục có công dụng ngăn ngừa bệnh nặng và tử vong ở những người được chích ngừa đầy đủ nhưng bị nhiễm biến thể Delta, họ vẫn có thể là nguồn gây bệnh. Hơn nữa, một nghiên cứu do cơ quan y tế công bố cho thấy biến thể Delta tạo ra lượng virus tương tự ở những người đã chích ngừa và chưa chích ngừa nếu họ bị nhiễm bệnh.
Các ca nhiễm đột phát đang xảy ra với tỷ lệ mới mắc cao hơn ở các quốc gia có tỷ lệ chích ngừa cao như Iceland, Israel và Anh Quốc, với những người có các triệu chứng nhẹ khi bị nhiễm biến thể Delta.
Iceland là một trong những quốc gia có tỷ lệ chích vaccine cao nhất với 96% nữ và 90% nam từ 16 tuổi trở lên đã được chích ít nhất một liều vaccine COVID-19, hiện đang chứng kiến số ca mắc bệnh tăng vọt, nhiều hơn so với các làn sóng trước đây.
Quốc gia này báo cáo không có trường hợp mới mắc trong nước vào ngày 11/07 đã lên đến 106 trường hợp sau đó, một tháng sau đó là 1,731 trường hợp đang hoạt động, theo dữ liệu chính thức tính đến thứ Tư (11/08). Số ca nhiễm đột phát gồm 74 ca đã chích ngừa đầy đủ, 43 người chưa chích ngừa, và một người đã bắt đầu chích ngừa.
Tiến sĩ Kevin Tracy, chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của Viện Nghiên cứu Y khoa Feinstein, trong một bài bình luận hôm thứ Tư (11/08) đã nói rằng vaccine không thể là công cụ duy nhất dựa vào để diệt trừ virus.
“Giải pháp là đầu tư và thực hiện các nghiên cứu khoa học và nghiên cứu lâm sàng cần thiết để xác định, khám phá và thử nghiệm các liệu pháp mới,” tiến sĩ Tracy viết, “Để chiến thắng trong cuộc chiến chống lại loại virus này, chúng ta cần những phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả và rẻ tiền.”
Remdesivir, loại thuốc kháng virus duy nhất được chấp thuận nhằm điều trị cho những bệnh nhân nặng nằm viện với hiệu quả tối thiểu.
Tiến sĩ Tracy cho biết, “Đã qua thời gian thu thập bằng chứng khoa học từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng các loại thuốc gốc (như famotidine, ivermectin, dexamethasone và những loại khác) để tìm hiểu xem chúng có thể hữu ích hay không.
Cô Meiling Lee là phóng viên về chuyên mục Sức khỏe của The Epoch Times.
Do Meiling Lee thực hiện
Thu Anh biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times
Xem thêm: