Lịch sử xấu xa và hậu quả tai hại của ‘giáo dục giới tính’ trong trường học (P2)
Bài viết này là phần 13.2 trong loạt bài nghiên cứu nguồn gốc của nền giáo dục công lập ở Hoa Kỳ.
Mời quý vị xem trọn bộ loạt bài này tại đây:
1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,13.1,13.2,14,15,16.1,16.2
CẢNH BÁO: Bài viết này có chứa thông tin nhạy cảm liên quan đến lạm dụng và bạo lực tình dục ở trẻ em.
Trước thời Kinsey
Ngay cả trước thời Kinsey, những kẻ lật đổ đã nhận ra lạm dụng tình dục trẻ em và phá hoại đạo đức tình dục có thể làm suy yếu xã hội – và họ tâm đắc với điều đó.
Năm 1919, nhà hoạt động đồng tính người Đức Magnus Hirschfeld đã thành lập Viện Nghiên cứu Tình dục. Các mục tiêu của Viện là thúc đẩy “tình yêu tự do”, thủ dâm, đồng tính luyến ái, an tử (euthanasia), kiểm soát dân số, phá thai, nữ quyền, v.v. Tại Hoa Kỳ, chương trình nghị sự này được rêu rao như một biện pháp để chống lại bệnh lây lan qua đường tình dục và đói nghèo.
Những người cộng sản cũng đóng một vai trò quan trọng. Trước Cách mạng Bolshevik ở Nga, những người cộng sản Nga đã thúc đẩy mạnh mẽ việc giáo dục giới tính biến thái và “tình yêu tự do”. Tuy nhiên, sau khi nhận ra rằng xã hội (và chế độ của họ) sẽ sụp đổ nếu nó tiếp tục, chương trình đã bị dừng lại vào năm 1924 – ít nhất là ở Nga. Mặc dù vậy tư tưởng “Con người Xô Viết mới” vẫn được hình thành.
Tuy nhiên, bên ngoài các quốc gia cộng sản nô dịch, những người theo chủ nghĩa Marx tiếp tục thúc đẩy cuộc cách mạng tình dục cấp tiến của họ tại các quốc gia tự do, và nó vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay.
Phó Ủy ban Giáo dục và Văn hóa Bolshevik Gyorgy Lukacs, người đảm nhận chức vụ dưới chế độ Bela Kun của Hungary vào năm 1918, đã tiên phong trong chiến lược này ở Hungary; và kết quả thì thật thảm khốc. Khi lên nắm quyền, Lukacs và các đồng chí của ông ta đã ra lệnh thực hiện giáo dục giới tính thô bạo, rất giống với chương trình được sử dụng ở Hoa Kỳ ngày nay.
Mục tiêu của ông ta là xóa sổ nền văn minh và các giá trị Cơ Đốc Giáo của Hungary trên con đường đi đến Chủ nghĩa Marxist Không tưởng. Các công cụ của ông ấy bao gồm chỉ đạo các buổi biểu diễn múa rối mô tả các hành vi quan hệ tình dục đồi bại cho trẻ nhỏ, khuyến khích sự gần gũi giữa nam và nữ trong giáo dục giới tính và chế giễu các giá trị gia đình của Cơ Đốc Giáo – vốn là nền tảng của nền văn minh.
Trong khi chế độ Bela Kun ở Hungary không tồn tại lâu, Lukacs đã trở thành một nhân vật quan trọng của Trường phái Frankfurt, như đã được tiết lộ trong phần 6 của loạt bài này. Nhóm này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá giáo dục giới tính và sự băng hoại trong tình dục trên khắp phương Tây. Họ đã làm điều này không chỉ bằng cách khuyến khích giáo dục giới tính, mà bằng cách phá bỏ có chủ ý và có chiến lược các giá trị truyền thống, đặc biệt là những giá trị liên quan đến tình dục, hôn nhân, nguyên tắc một vợ một chồng và cuộc sống gia đình.
Đến đầu những năm 1900, Hiệp hội Giáo dục Quốc gia (NEA) do xã hội chủ nghĩa kiểm soát bắt đầu vận động cho việc giảng dạy “an toàn tình dục” trong các trường học (phần 8 của loạt bài này). Nó mượn cớ chống lại các bệnh hoa liễu vốn tất yếu bùng nổ do tình trạng quan hệ tình dục bừa bãi được thúc đẩy bởi phong trào giải phóng tình dục rộng rãi.
Một nhân vật quan trọng khác trong việc xúc tiến ý tưởng giáo dục giới tính là G. Stanley Hall, một người cấp tiến đã đào tạo Dewey, cha đẻ của chương trình đào tạo “cấp tiến” núp dưới bóng là giáo dục công lập ngày nay. Lý do đẩy mạnh giáo dục giới tính của Hall là một số cô gái tin rằng họ có thể mang thai bằng cách hôn.
Biến đổi các giá trị
Rốt cuộc, giáo dục giới tính chính là một phương tiện để kết thúc nền văn minh bằng cách: Thay đổi các giá trị của trẻ em và phá hoại gia đình nhằm biến đổi cơ bản xã hội Hoa Kỳ, rời xa nền văn minh Kitô giáo tự do và hướng tới một “Chủ Nghĩa Không Tưởng” mới.
Thật vậy, trong một báo cáo năm 1979 của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) có tiêu đề “Phân Tích Về Các Phương Pháp Đánh Giá Và Chương Trình Giáo Dục Giới Tính Của Hoa Kỳ” (An Analysis of U.S. Sex Education Programs and Evaluation Methods), các nhà nghiên cứu tiết lộ rằng “mục tiêu” của giáo dục giới tính trong các trường học Hoa Kỳ đã trở nên “tham vọng hơn nhiều”, hơn cả những gì phụ huynh nhận ra. Những mục tiêu đó bao gồm “thay đổi… thái độ và hành vi”, điều mà các tác giả thừa nhận sẽ không được nhiều người dân Hoa Kỳ ủng hộ.
Ngay cả trước đó, Liên Hiệp Quốc và Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) – tổ chức đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa nhân văn như được đề cập trong phần 9 của loạt bài này – cũng đã tham gia vào việc giáo dục giới tính. Một báo cáo về Hội nghị chuyên đề quốc tế do UNESCO tài trợ tháng 2/1964 về Giáo dục sức khỏe, Giáo dục giới tính và Giáo dục Cuộc sống Gia đình đã khuyến nghị “giáo dục giới tính [nên] bắt đầu từ cấp tiểu học.”
Tài liệu cũng kêu gọi sex ed (tên gọi tắt của giáo dục giới tính) được “tích hợp vào toàn bộ chương trình giảng dạy” và lập luận rằng “trẻ em trai và trẻ em gái nên được dạy cùng nhau”. Tiếp nối Kinsey, Liên Hiệp Quốc, vốn luôn thân thiết với gia tộc Rockefeller đã tài trợ cho Kinsey, kêu gọi sử dụng “các phương pháp giảng dạy chống giáo điều”, đồng thời khẳng định “các chuẩn mực đạo đức là những khái niệm tương đối thay đổi theo thời gian.”
Việc giảng dạy “chống giáo điều” và thuyết tương đối về đạo đức là yếu tố then chốt của họ. Do đó, tất cả việc giáo dục giới tính được kết hợp với cái gọi là “làm rõ các giá trị”. UNESCO – một tổ chức bị những người cộng sản chủ nghĩa xã hội và nhân văn thống trị từ ngày đầu tiên – đã ủng hộ kế hoạch giáo dục này trong nhiều thập kỷ.
Quá trình lật đổ này nhằm mục đích khiến trẻ em từ bỏ những ước thúc tuyệt đối về mặt đạo đức trong tình dục và mọi lĩnh vực khác, bằng cách sử dụng các biện pháp thao túng tinh thần và cảm xúc.
Nó cung cấp cho trẻ em những tình huống giả định trong đó giải pháp có tính đạo đức mà chúng được dạy là sai. Chẳng hạn, một ví dụ phổ biến là một chiếc bè cứu sinh chỉ có thể chứa được 8 người, nhưng hiện đang có 9 người. Các học sinh được cho biết ai đang có mặt trên thuyền – bác sĩ, kỹ sư, y tá, cảnh sát, v.v. – sau đó được hỏi ai nên hy sinh vì “điều tốt đẹp hơn”.
Tất nhiên, thay vì chọn một nạn nhân để sát hại, phương án tốt hơn là các hành khách thay phiên nhau bơi dọc theo chiếc bè. Nhưng câu trả lời đó sẽ phá hỏng toàn bộ mục đích của bài tập là khiến trẻ em không phân biệt được đúng và sai, cũng như bác bỏ những lời dạy của cha mẹ và mục sư của chúng.
Phương pháp trên kết hợp với kiểu giáo dục giới tính thô tục – khuyến khích tâm lý “thứ gì cũng có thể xảy ra” và cung cấp cho trẻ em những thông tin giả dối về cảm giác “an toàn” mà không có tiêu chuẩn đạo đức ước thúc và không màng tới hậu quả (rốt cuộc, nếu có thai thì có thể phá) – hậu quả xảy ra là vô cùng thảm khốc.
Những hậu quả
‘Thành quả’ của tất cả sự giáo dục giới tính triệt để này hiện đã rõ ràng. Các thể chế của hôn nhân và gia đình đang rơi tự do. Một nửa số cuộc hôn nhân hiện nay kết thúc bằng ly hôn. Và ngay cả những cặp vợ chồng đang ở bên nhau cũng thường gặp trắc trở, gian nan.
Trong khi đó, tỷ lệ sinh đã giảm mạnh xuống dưới mức sinh thay thế (replacement levels) ở phương Tây.
(*Mức sinh thay thế là mức sinh mà trung bình một phụ nữ trong toàn bộ cuộc đời sinh đẻ của mình sinh đủ số con gái để thay thế mình thực hiện chức năng sinh đẻ, duy trì nòi giống).
Nền văn minh đang chết dần theo nghĩa đen bởi một mớ hỗn độn những hành vi tình dục không tình yêu, lạm dụng ma túy, tự tử, tuyệt vọng, bệnh hoa liễu, văn hóa phẩm khiêu dâm và loạn tình dục.
Các cá nhân cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tiến sĩ Reisman cho biết: “Những bộ não non nớt không phải được tạo ra để xử lý các kích thích tình dục dưới bất kỳ hình thức nào,” việc giáo dục giới tính rất khó hiểu và khiến bất kỳ đứa trẻ bình thường nào cũng lo lắng. Thật vậy, những kích thích này làm não bộ của chúng quay trở lại để thích ứng với thông tin “mới”, bà nói.
Nó cũng khiến đứa trẻ bắt chước các hành vi mà chúng tiếp xúc, dẫn đến nghiện các kích thích tình dục.
Bà Reisman, một trong những chuyên gia học thuật hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này, cho biết: “Nghiện các kích thích tình dục và hành vi tình dục sẽ dẫn đến trầm cảm, các loại rối loạn nhận dạng, STDs, các vấn đề sức khỏe tâm thần, kiệt quệ cảm xúc, tức giận, mất thành tích học tập v.v.”
Bà nói thêm: “Trước đây, những kích thích tình dục gây sốc thường khiến nhiều đứa trẻ nhầm lẫn rằng chúng là người đồng tính luyến ái. Giờ đây, nhiều thanh niên sẽ cho rằng chúng là người chuyển giới, đặc biệt là khi những thứ này được khuyến khích ở khắp nơi chúng đến, và thường là do chính những bậc cha mẹ rất rắc rối của chúng”.
Dữ liệu đã chứng minh điều này, một nghiên cứu năm 2017 từ Đại học California – Los Angeles cho thấy rằng hơn một phần tư trẻ em California từ 12 đến 17 tuổi được xác định là “có giới tính không phù hợp” hoặc “ái nam ái nữ”. Tại Thụy Điển, quốc gia giáo dục giới tính thậm chí còn cấp tiến và phổ biến hơn ở Hoa Kỳ, các báo cáo chỉ ra rằng số lượng trẻ em “chuyển giới” đang tăng gấp đôi mỗi năm.
Bà Reisman cho biết: “Sức khỏe tinh thần cũng như sức khỏe thể chất và tình dục của trẻ vị thành niên đã suy giảm theo mọi thước đo về mức độ hạnh phúc mà xã hội chúng ta đề ra trong lịch sử,” và xu hướng này vẫn tiếp tục.
Một chuyên gia khác đã nghiên cứu những hậu quả khủng khiếp của giáo dục giới tính cho trẻ em là nhà phân tâm học và bác sĩ y khoa quá cố, Tiến sĩ Melvin Anchell – người đã viết báo cáo thiểu số cho Ủy Ban Về Văn Hoá Phẩm Đồi Truỵ Và Khiêu Dâm của Tổng thống Lyndon Johnson và cũng là nhân chứng chuyên gia cho Bộ trưởng Tư pháp của Ủy ban năm 1985 về khiêu dâm và đồi truỵ.
Ngoài ra, ông cho biết những chương trình truyền bá tình dục nhắm vào trẻ nhỏ này gây ra “hậu quả không thể bù đắp” cho nạn nhân suốt cuộc đời của họ.
Tiến sĩ Anchell, người có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục giới tính, đã ghi lại những thiệt hại gây ra cho trẻ em trong các cuốn sách: “Kẻ Sát Hại Trẻ Em: Cái Nhìn Phân Tâm Về Giáo Dục Giới Tính” (Killers of Children: A Psychoanalytic Look At Sex Education) và “Điều Gì Sai Với Giáo Dục Giới Tính” (What’s Wrong With Sex Education).
Trích dẫn một lượng lớn dữ liệu và bằng chứng, Tiến sĩ Anchell lập luận rằng việc xâm hại tình dục trẻ em gây ra tác hại khôn lường và thường là vĩnh viễn, gây tổn hại nghiêm trọng đến cuộc sống hôn nhân, gia đình, các mối quan hệ và tương lai của trẻ em. Trong một số trường hợp, nó thậm chí có thể góp phần gây ra chứng biến thái nhân cách, tự tử, sát nhân hàng loạt, v.v.
Tình trạng mang thai hộ cũng bùng nổ ngay trong thời điểm các chương trình giáo dục giới tính trở nên phổ biến vào những năm 1960. Bằng chứng cho thấy những đứa trẻ lớn lên mà không có bố thông thường sẽ sống tệ hơn nhiều so với những đứa trẻ có đủ cả cha lẫn mẹ.
Trong cộng đồng người da màu, chỉ có khoảng 15% trẻ em được sinh ra ngoài giá thú từ năm 1940 đến năm 1950. Đến năm 2008, sau 60 năm giáo dục giới tính, gần 3/4 trẻ em da đen là do những bà mẹ đơn thân sinh ra.
Trong số những người da trắng, không tới 5% trẻ em được sinh ra ngoài giá thú trước năm 1960. Đến năm 2008, con số này bùng nổ lên khoảng 30%.
Tất nhiên, giáo dục giới tính toàn diện thường được quảng cáo ra công chúng như một công cụ để chống lại việc mang thai ở tuổi vị thành niên và các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Trên thực tế, số liệu rất rõ ràng: Sau khi giáo dục giới tính ra đời, các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs) và trẻ vị thành niên mang thai ngoài ý muốn đã tăng vọt. Rõ ràng, giảm STDs và mang thai ngoài ý muốn chưa bao giờ là mục tiêu. Nếu đúng như vậy thì cuộc thử nghiệm này lẽ ra đã phải dừng lại muộn nhất vào những năm 1960, chứ không phải được đẩy mạnh.
Tương lai phía trước
Giáo dục giới tính toàn diện cho trẻ nhỏ ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới đang ngày càng trở nên cực đoan hơn. Những đứa trẻ non nớt đang phải tiếp xúc với những nội dung tục tĩu, đồi trụy, khiêu dâm, tuyên truyền LGBT, v.v.
Năm 2018, UNESCO đã phát hành “hướng dẫn kỹ thuật quốc tế về giáo dục tình dục” kêu gọi các trường học dạy trẻ em về “khoái cảm tình dục”, thủ dâm và “phản ứng với kích thích tình dục” trước khi chúng lên 10 tuổi. Đến 12 tuổi, các tiêu chuẩn giảng dạy kêu gọi trẻ em phải được giáo dục rằng “các hành vi tình dục không giao cấu” có thể sẽ “thú vị”.
Tiến sĩ Reisman cảnh báo, nếu không kiểm soát được đại dịch của sự đồi bại, tình dục hóa và khiêu dâm trẻ em, thì những hậu quả “đen tối” như “sự sụp đổ văn hóa” sẽ xảy ra. Thêm vào đó, người dân Hoa Kỳ có thể chứng kiến các gia đình không ngừng tan vỡ, tội phạm bùng nổ, nhiều vụ tự tử hơn, chính phủ leo thang tính chuyên chế, thậm chí lạm dụng ma túy nhiều hơn, tình trạng nghèo đói lan rộng v.v.
“‘Tân Thế Giới Dũng Cảm’ (The Brave New World) thực sự không bao giờ dũng cảm,” bà Reisman nói, đề cập đến cuốn sách nổi tiếng của Aldous Huxley về một tương lai của giải phóng tình dục và chính phủ kiểm soát mọi khía cạnh của cuộc sống. “Chúng tôi có thể thấy cuộc sống của mình trong đó.”
Khi được hỏi tại sao chính phủ và các tổ chức quyền lực khác có vẻ rất kiên quyết trong việc tính dục hóa trẻ em ở độ tuổi nhỏ, Bà Reisman nói rằng một phần là do chạy theo đồng tiền. Bà nói: “Các chính phủ được hỗ trợ tài chính bởi một số người và tổ chức trong bối cảnh ngành công nghiệp khiêu dâm, dược phẩm và tổ hợp công nghiệp tình dục gia tăng”.
“Chính phủ độc tài ủng hộ việc dung dưỡng các đối tượng có đầu óc phụ thuộc vào họ,” bà nói thêm. “Nếu giáo dục giới tính cho trẻ con sớm, nạn nhân sẽ bị hạn chế về khả năng tư duy phản biện, ít được giáo dục thực tế. Chính phủ sẽ có những đối tượng sẵn sàng kích động sự tuyên truyền man rợ như Chiến binh Công lý Xã hội, hoặc những đứa trẻ/giáo sư đại học mà liên tục hét lên từ F* với bất kỳ ai có suy nghĩ khác”.
Các giải pháp
Để đối phó với cuộc khủng hoảng hiện sinh, Tiến sĩ Reisman đưa ra hai điểm chính: Giải thoát trẻ em khỏi trường công lập và mở các cuộc điều tra tội phạm về bộ máy giáo dục giới tính của Kinsey.
“Đưa trẻ em ra khỏi các trường công lập; trả lại quyền đào tạo con cháu cho cha mẹ hoặc ông bà chúng,” bà nói. “Cha mẹ là những nhà giáo dục chính yếu của con họ và họ cần phải nhận lại vai trò và trách nhiệm đó.”
Ngoài ra, bà cũng kêu gọi khôi phục các tiêu chuẩn đạo đức Do Thái-Cơ Đốc Giáo và bãi bỏ các điều khoản miễn trừ đối với các đạo luật suy đồi nhằm bảo vệ các quan chức trường học công phát tán tài liệu khiêu dâm cho trẻ em. Những hành động này được xem là trọng tội trong hầu hết các trường hợp.
Trên hết, bà kêu gọi các nhà lập pháp hồi sinh đạo luật H.R. 2749 để điều tra Viện Kinsey về bất kỳ “hoạt động tội phạm nào trong quá khứ và hiện tại của viện”. Viện đã lập luận rằng “tính bảo mật của bệnh nhân” ngăn cản việc chia sẻ thông tin, nhưng bà Reisman và những người ủng hộ khác nói rằng điều cần thiết là người dân Hoa Kỳ phải biết sự thật về những gì đã xảy ra.
Cơn sốt giáo dục giới tính được những người cộng sản khơi mào, sau đó được “Tiến sĩ” tín nhiệm Kinsey kế thừa, kết hợp với sự tiếp quản giáo dục của chính phủ “cấp tiến” đã đưa quyền tự do của gia đình, nền văn minh và chính trị đến bờ vực sụp đổ.
Đã đến lúc người dân Hoa Kỳ cần nghiêm túc giải quyết những vấn đề này trước khi tất cả rơi vào vực thẳm.
Ông Alex Newman là một cộng tác viên tự do. Ông Newman là một ký giả, nhà giáo dục, tác giả, và nhà tư vấn quốc tế từng đạt giải thưởng, người đã đồng sáng tác cuốn sách “Tội Ác của Các Nhà Giáo Dục: Cách Những Người Theo Chủ Nghĩa Bình Quân đang Sử Dụng Trường Học của Chính Phủ để Hủy Hoại Trẻ Em Mỹ” (“Crimes of the Educators: How Utopians Are Using Government Schools to Destroy America’s Children”). Ông là giám đốc điều hành của Public School Exit cũng như của Liberty Sentinel Media, và viết cho các ấn phẩm đa dạng ở Hoa Kỳ và ngoại quốc.
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.