Khi kinh tế Trung Quốc trượt dốc, chủ nghĩa quân phiệt của ĐCSTQ phát triển
Phong cách ngoại giao của Trung Quốc và các mối quan hệ quốc tế của nước này đã thay đổi rõ rệt kể từ năm 2019. Một số yếu tố đang thúc đẩy những thay đổi trong những mối quan hệ của Trung Quốc với thế giới. Chúng bao gồm những thay đổi trong bối cảnh chính trị và kinh tế toàn cầu cũng như các yếu tố khác mang tính nội tại về bản chất.
Tuy nhiên, cả hai [khía cạnh này] đều đang thúc đẩy các luận điệu và hành vi quân phiệt mới nổi của Trung Quốc cộng sản.
Xóa bỏ các đối thủ cùng sự tăng trưởng kinh tế
Trong vài năm qua, lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã loại bỏ mọi đối thủ tiềm ẩn một cách có hệ thống — dù là về mặt chính trị, kinh tế, hay là văn hóa — ra khỏi đời sống của người Trung Quốc. Quá trình đó làm suy giảm tinh thần và năng lượng của quốc gia này và làm biến dạng bối cảnh trong nước dẫn đến các mức độ sợ hãi và nghi kỵ mới.
Trong giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), chứng hoang tưởng chính trị này đã đi kèm với vai trò thậm chí còn lớn hơn nữa của Đảng. Đặc biệt, ĐCSTQ đang mở rộng sự phối hợp của các doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp tư nhân. Điều đó sẽ không nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế, mà ngược lại, sẽ làm tăng cường sự kiểm soát của Đảng đối với các doanh nghiệp.
Nhưng những hành động như vậy được coi là cần thiết đối với một cấu trúc chính trị vốn ngay từ đầu đã không ổn định. Không có thách thức thực tế hay là tưởng tượng hoặc các ảnh hưởng trái ngược nào có thể được khoan dung bởi vì tất cả những vấn đề đó sẽ mang tính cá nhân đối với nhà lãnh đạo duy nhất của Đảng và đất nước, ông Tập. Do đó, khi đảo ngược một chính sách lâu đời, sự kiểm soát chính trị đối với các công ty công nghệ quyền lực và các công ty có lợi nhuận cao và độc lập khác sẽ lấn át sự tăng trưởng kinh tế và đổi mới.
Tính thất thường, sự bất ổn của nền cai trị độc tài
Bằng cách củng cố quyền lực cho mình nhiều hơn bất kỳ người cầm quyền nào kể từ thời Mao Trạch Đông, ông Tập đã trở thành tâm điểm của hầu như toàn bộ cuộc sống của người dân Trung Quốc. Việc tập trung quyền lực vào một người như vậy cho phép đưa ra một loạt các quyết định thiếu sáng suốt.
Tệ hơn nữa, việc này gây ra các vòng lặp hành vi thất thường, vì các quyết định kém được “sửa chữa” bằng việc phản ứng thái quá hoặc các quyết định kém khác gây ra bởi nhân cách, sự hoang tưởng, thiếu kiến thức, và thiếu cân nhắc. Nếu có đi chăng nữa, thì một vị “cố vấn” sẽ sẵn lòng đặt bao nhiêu câu hỏi và ở mức độ thường xuyên như thế nào về quyết định của một người đàn ông khiến những người cản đường ông ta biến mất?
Kết quả của một cơ cấu cai trị như vậy đang làm gia tăng bất ổn nội bộ. Như chúng ta đang thấy, sự bất ổn ở bên trong chuyển thành những hành động mạo hiểm ngày càng lớn ở bên ngoài. Các động cơ có thể dự đoán được vì họ chỉ quan tâm đến bản thân mình. Các động cơ được định hình như thể là điều cần thiết để chống lại một kẻ xâm lược ngoại quốc tưởng tượng hoặc trong lịch sử hoặc bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhưng điều cần thiết [đằng sau các động cơ này] là giúp thống nhất quốc gia, loại bỏ những lời chỉ trích trong nội bộ Đảng, và chuyển hướng sự chú ý của người dân ra khỏi một danh sách dài và ngày càng tăng về những thất bại trong chính sách ngoại giao và nội bộ.
Chiến tranh Ukraine thúc đẩy các nhà sản xuất từ bỏ Trung Quốc
Nhiều sai sót trong quyết định chính sách đã khiến thế giới ngắt kết nối với Trung Quốc. Hãy nhớ cách các chính sách kinh tế cứng rắn của ĐCSTQ, các mức thuế quan một chiều, các bẫy nợ của Sáng kiến Vành đai và Con đường, và hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ cuối cùng đã bắt đầu quay trở lại gậy ông đập lưng ông vào chế độ Bắc Kinh dưới thời chính phủ cựu Tổng thống Trump như thế nào. Các công ty phương Tây hoạt động ở Trung Quốc trong nhiều năm đã bắt đầu hồi hương và chuyển quá trình sản xuất của họ về gần trụ sở để giảm thiểu chi phí vận chuyển, hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ, và chi phí nhân công tăng cao ở Trung Quốc.
Sau đó, từ cuối năm 2019 đến năm 2021, COVID-19 và tác động kinh tế tàn khốc của đại dịch này đã có những ảnh hưởng rộng khắp trên toàn thế giới. Các đợt phong tỏa toàn quốc ở nhiều nơi trên thế giới và phí tổn kinh tế ngày càng gia tăng khiến cộng đồng quốc tế nhìn nhận Bắc Kinh và ĐCSTQ với sự ngờ vực sâu sắc và thậm chí là phản đối.
Nhưng chính sự ủng hộ không thể nghi ngờ và “không giới hạn” của Trung Quốc đối với cuộc xâm lược tàn khốc của Nga vào Ukraine vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay đã gây nên việc các công ty phương Tây ồ ạt rời khỏi Trung Quốc. Dễ đoán là nền kinh tế Trung Quốc đã bị ảnh hưởng — và tiếp tục chịu ảnh hưởng — từ sự rút lui ngày càng tăng của các doanh nghiệp phương Tây. Các đợt phong tỏa xảy ra cùng lúc từ chính sách “zero COVID” của Bắc Kinh đã làm tăng thêm gấp bội những thảm họa về kinh tế đang ngày càng leo thang của Trung Quốc.
Nền kinh tế trượt dốc là không thể đảo ngược
Như đã lưu ý, các yếu tố trực tiếp dẫn đến sự vươn lên nhanh chóng của Trung Quốc để trở thành một cường quốc kinh tế không còn mạnh mẽ như trước nữa. Như The Atlantic đã chỉ ra [trong một bài báo] vào năm ngoái, các con số nói lên câu chuyện này.
Bài báo cho biết: “Từ năm 2007 đến năm 2019, tốc độ tăng trưởng đã giảm hơn một nửa, năng suất giảm hơn 10%, và tổng nợ tăng gấp tám lần.”
Hơn nữa, dân số đang già hóa của Trung Quốc đang đẩy nhanh sự suy giảm kinh tế.
Theo The Atlantic, “Chỉ riêng từ năm 2020 đến năm 2035, nước này sẽ có ít đi 70 triệu người trưởng thành trong độ tuổi lao động và có thêm 130 triệu người cao tuổi.”
Một Hoa Kỳ suy yếu đem lại những thách thức
Sự hung hăng của Bắc Kinh cũng là kết quả của các điều kiện ngoại cảnh. Cụ thể, sự yếu kém của Hoa Kỳ trên trường quốc tế đã thể hiện rõ ràng trong suốt thời kỳ chính phủ Tổng thống Biden. Hậu quả là, sự yếu kém này đã tiếp thêm sức mạnh cho luận điệu hiếu chiến của Bắc Kinh đối với Hoa Kỳ và các quốc gia khác.
Việc Hoa Kỳ rút lui khỏi Afghanistan một cách sai lầm và bi thảm không chỉ khiến làm giảm thanh thế sức mạnh của Hoa Kỳ, mà còn để lại một khoảng trống quyền lực. Trung Quốc (và Nga) — các đối thủ chính của Hoa Kỳ — rất vui lòng lấp đầy khoảng trống đó.
Hơn nữa, trong cuộc chiến Ukraine, Hoa Kỳ đang lãnh đạo từ phía sau. Chính phủ Tổng thống Biden đã cho thấy rằng họ không thể áp đặt ý chí hoặc ảnh hưởng của mình một cách ổn vững lên các chính sách của Bắc Kinh hoặc Moscow. Kết quả là, cách hành xử của Trung Quốc ngày càng gia tăng tính quân phiệt ở khu vực Á Châu-Thái Bình Dương.
Các tranh chấp hàng hải trong khu vực gia tăng
Chủ nghĩa quân phiệt của chính quyền Trung Quốc không chỉ được thấy trong những lần các chiến đấu cơ của Quân đội Giải phóng Nhân dân xâm nhập gần như hàng ngày vào không phận Đài Loan, mà còn ở việc nhà cầm quyền này mở rộng toàn diện các luận điệu chiến tranh và hoạt động hải quân trên khắp khu vực.
Lời đe dọa tấn công hạt nhân được che đậy mỏng manh nhằm vào Úc vì đồng ý mua tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân chỉ là một trong nhiều lần leo thang luận điệu của Bắc Kinh. Việc Trung Quốc tiếp tục tập trung lực lượng hải quân đang cho phép nước này mở rộng các mối đe dọa hải quân tới Nhật Bản, khi gần đây họ đã bao vây quần đảo Nhật Bản để phản ứng với một tranh chấp hàng hải.
Khi điều kiện kinh tế của Trung Quốc trở nên xấu đi, Bắc Kinh sẽ táo bạo hơn trong các hành động của mình, đặc biệt là trong khu vực của chính họ. Sự suy giảm sức mạnh và ý chí chính trị của Hoa Kỳ chắc chắn là một yếu tố trong những trù tính chính sách của Bắc Kinh, nhưng sự bất ổn nội bộ ngày càng tăng mà giới lãnh đạo ĐCSTQ đang gây ra cũng vậy [cũng nằm trong những điều mà Bắc Kinh toan tính].
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
Ông James R. Gorrie là tác giả của “The China Crisis” (“Cuộc Khủng Hoảng Trung Quốc”, NXB Wiley, 2013) và viết trên blog của mình, TheBananaRepublican.com. Ông hiện đang sinh sống tại Nam California.