Hoa Kỳ đã quên mất ‘điều kiện cần và đủ’ cho các cuộc bầu cử công bằng
Ở phía bắc vĩ tuyến 49, những cảnh báo sớm của tổng thống Hoa Kỳ về việc [Đảng Dân Chủ] dùng đại dịch virus Trung Cộng như một cái cớ để từ bỏ các thông lệ bỏ phiếu dân chủ lâu đời, đã không được đưa tin trên diện rộng. Nhưng thực tế là, tình cảnh khó khăn của Đảng Cộng Hòa trước nguy cơ của việc bỏ phiếu sớm hàng loạt, việc phân phối hàng triệu lá phiếu bầu gửi qua thư không do [cử tri] yêu cầu, và việc chấp nhận chuyển phát phiếu bầu sau ngày bầu cử [03/11], đã chứng minh tiên đoán [của Tổng thống Trump] là đúng một cách thảm khốc. Sau các sự kiện tuần trước, người ta đã nêu lên một số lo ngại về tương lai của nền dân chủ Hoa Kỳ.
Các nhà triết học chính trị, ngoại trừ những kẻ theo thuyết cách mạng của chủ nghĩa Marxist, luôn hiểu rằng dân chủ bầu cử là một cách để thay đổi giới lãnh đạo mà không cần dùng đến đe dọa và bạo lực. Các công dân tự do thường đồng ý [với quan điểm này].
Tuy nhiên gần đây, các nhân vật hàng đầu của phe cánh tả Hoa Kỳ dường như đã thuận tình quên mất những điều kiện cần và đủ cần thiết để tạo ra những kết quả bầu cử công bằng và chính xác.
Điều này không phải là điềm báo tốt lành cho danh tiếng của nền dân chủ Hoa Kỳ, bởi vì trước hết đó là khả năng của công dân tham gia vào một quy trình bầu cử trung thực, dẫn đến nghĩa vụ tuân thủ luật pháp và quy định do các nhà lãnh đạo và nghị sĩ được bầu chọn một cách hợp pháp quyết định.
‘Các điều kiện cần và đủ’ cho các cuộc bầu cử công bằng
Tạm thời, hãy quay trở lại với những từ vựng liên quan, một mục tiêu cần là một điều kiện cần phải có để một sự kiện có thể xảy ra. [Trong khi đó], một mục tiêu đủ là một hoặc một tập hợp các điều kiện, vốn chắc chắn sẽ tạo ra một sự kiện hoặc kết quả cụ thể.
Ở đây là phải có một ‘điều kiện cần’, nhưng chỉ mình nó không đủ để sự kiện xảy ra. Nói cách khác, phải có tất cả ‘các yếu tố cần thiết’ để tạo ra một kết quả mong muốn.
Nếu kết quả mong muốn là một cuộc bầu cử công bằng, thì thông thường những người biết điều đều đồng ý rằng có ít nhất 4 ‘điều kiện cần’ để tạo ra những kết quả trung thực và đem lại tính hợp pháp cho kết quả cần thiết cho việc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình trong một xã hội dân chủ.
[Điều kiện] thứ nhất, các cuộc bầu cử phải theo chu kỳ. Nói chung, khoảng thời gian từ 2 đến 7 năm được coi là có thể chấp nhận được đối với việc bầu các nhánh lập pháp và hành pháp khác nhau ở hầu hết các nền dân chủ phương Tây.
[Điều kiện] thứ hai, để cung cấp cho công dân một sự lựa chọn công bằng, hệ thống [bầu cử] phải tạo cơ hội rộng rãi cho những người khác nhau tranh cử.
[Điều kiện] thứ ba, phải có mức độ tự do ngôn luận cao. Những hạn chế về giao tiếp, quyền tập hợp và tiếp cận thông tin sẽ ngăn cản và phá hỏng quá trình bầu cử công bằng. Khi diễn ngôn công khai bị hạn chế, và các cơ quan truyền thông chủ đạo xúc tiến một lựa chọn cụ thể, thì một chiến dịch bầu cử sẽ không thể hoạt động như bình thường.
[Điều kiện] thứ tư, các quy tắc lâu đời cho các cuộc bầu cử do các cơ quan lập pháp thiết lập phải được thống nhất và tôn trọng nghiêm ngặt. Bầu cử có thể là các thủ tục phức tạp, và nhiều quốc gia sử dụng các phương pháp khác nhau để tiến hành. Cách thức bỏ phiếu và kiểm phiếu đều có ảnh hưởng sâu sắc đến cách mọi người nhìn nhận về tính hợp pháp của kết quả.
Liệu Hoa Kỳ vẫn đang sở hữu ‘những điều kiện đủ’ cho nền dân chủ?
Không có cái gọi là “ý chí của nhân dân” mà độc lập với các phương tiện được chọn để đo lường nó. Các cuộc bầu cử là thời khắc thiêng liêng trong sự sinh tồn của một quốc gia khi các công dân tái khẳng định cam kết cá nhân đối với các thủ tục hiến định.
Nhưng, một nhóm đáng kể những người dân Hoa Kỳ dường như không còn coi trọng tất cả ‘các điều kiện cần và đủ’ để duy trì một nền dân chủ thực sự. Để đạt được kết quả bầu cử hợp pháp, chỉ có hai trong số bốn điều kiện cần dường như còn đáp ứng được tiêu chuẩn thành lập nước cộng hòa.
Tại Hoa Kỳ, các cuộc bầu cử thường xuyên, định kỳ vẫn diễn ra kể từ khi Hiến pháp Hoa Kỳ được phê chuẩn. Việc nghỉ hưu tự nguyện của tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, George Washington, đã đặt ra một tiền lệ lịch sử cho sự chuyển giao quyền lãnh đạo chính trị kịp thời.
Về câu hỏi ai có thể tranh cử, [người ta cho rằng] có một số hạn chế dựa trên luật pháp và luật pháp bổ sung đã được áp dụng trong suốt quá trình phát triển của nền dân chủ Hoa Kỳ. Nhưng, kể từ khi có Các Dự luật về Quyền Dân sự vào những năm 1960, vô số công dân Hoa Kỳ thuộc nhiều tầng lớp, chủng tộc và giới tính khác nhau đã có cơ hội ứng cử vào các chức vụ công. Ngay cả những ứng cử viên, vốn tìm cách thay đổi cơ bản các nguyên tắc sáng lập của nền cộng hòa cũng được quyền tranh cử vào các vị trí cao nhất của đất nước.
Các cuộc bầu cử định kỳ và các cơ hội rộng mở để tranh cử, là ‘những điều kiện cần’ cho các cuộc bầu cử hợp pháp, nhưng bản thân chúng không đủ để tạo ra một kết quả công bằng.
Liên quan đến [quyền] tự do ngôn luận và [quyền] tiếp cận đầy đủ thông tin, các điều kiện hiện tại ở Hoa Kỳ là không đáp ứng được yêu cầu của một nền dân chủ tự do hoạt động đúng cách. Trong nhiều thập kỷ qua, sự bất đồng chính kiến đã bị kìm hãm bởi các tập đoàn báo chí có tư tưởng thống trị và các nền tảng truyền thông công nghệ cao, vốn có xu hướng áp đảo thiên về phía “cấp tiến” của phổ chính trị [bao gồm cánh tả và cánh hữu].
Ngoại trừ những gì mà báo chí “tự xuất bản” [“samizdat”] về khía cạnh dân túy-bảo thủ, thì ảnh hưởng tổng hợp của các phương tiện truyền thông lớn, các nền tảng công nghệ lớn, các ngân hàng lớn, giáo dục lớn, giải trí lớn, và các lợi ích to lớn của Trung Cộng đã tập hợp các phương tiện cần thiết để định hình và bảo vệ tự sự chính trị cấp tiến.
Trong hơn một thế kỷ, các nhà hoạch định quan điểm có quyền lực, đã tìm cách hủy hoại tính hợp pháp của các truyền thống Hoa Kỳ, nhạo báng trí thông minh của cử tri phổ thông, làm suy yếu niềm tin vào các nguyên tắc sáng lập của quốc gia, và chuẩn bị đủ người để chấp thuận một cuộc cách mạng nửa-Marxist ở thế kỷ 21 trước khi bỏ phiếu.
Việc giữ kín vụ bê bối ăn chơi trác táng của gia đình Biden với Bắc Kinh là một ví dụ trắng trợn về khuynh hướng của các ông lớn công nghệ [Big Tech] che giấu thông tin, mà cử tri đáng lẽ có thể tiếp cận được trước khi họ bỏ phiếu.
Các cuộc bầu cử hư nát
Năm nay dường như đã báo hiệu sự kết thúc của các cuộc bầu cử tự do và công bằng ở Hoa Kỳ. Dưới vỏ bọc của những lo ngại về COVID-19, từ rất lâu trước ngày bầu cử, một số tiểu bang đã phân phát hàng triệu lá phiếu qua thư không do yêu cầu và lên kế hoạch kiểm phiếu sau khi các điểm bầu cử đóng cửa vào ngày 03/11. Những hành động chưa từng có tiền lệ này, đã dẫn đến thất bại thảm hại của hệ thống bầu cử Hoa Kỳ.
Người dân [Hoa Kỳ] đồng ý được quản lý với điều kiện những người giữ chức vụ công được xem là được bầu một cách công bằng. Những bất đồng về phong cách lãnh đạo hoặc các quan điểm chính sách, thường không được coi là lý do chính đáng cho những nỗ lực đảo chính hoặc bất phục tùng công khai, bởi vì chúng ta tin tưởng rằng luôn luôn có cơ hội thay thế giới lãnh đạo được bầu trong một cuộc bầu cử công bằng sau đó.
Hầu hết các nền dân chủ đều cho phép những công dân, vốn đã đăng ký trong danh sách bầu cử, được yêu cầu một lá phiếu khiếm diện và bỏ phiếu qua đường bưu điện. Tuy nhiên, vì một số lý do rất hợp lý, bỏ phiếu theo cách này hiếm khi là một thông lệ chung.
Ý tưởng về việc bỏ phiếu kín, được thực hiện trực tiếp sau khi xác minh danh tính cử tri, vào một ngày được chỉ định, trong phạm vi riêng tư của phòng bỏ phiếu, là sự khẳng định về quyền của cá nhân công dân trong việc đưa ra quyết định bầu cử độc lập với sự can thiệp phi lý của các bên khác.
Trước khi quyết định thay đổi quy trình này một cách có hệ thống, người ta có thể hình dung ra nhiều cách mà những công dân nhận được lá phiếu không do yêu cầu, có thể thấy mình bỏ phiếu dưới ảnh hưởng trực tiếp của những người khác, hoặc từ bỏ những lá phiếu của mình cho các nhà hoạt động đảng phái thu hoạch.
Bản chất tình trạng không được kiểm soát của việc phân phát phiếu bầu, việc chấp nhận các lá phiếu bầu đến muộn và từ chối cho phép người giám sát kiểm tra việc kiểm phiếu là khuyến khích cho việc gian lận, tham nhũng, và không tin vào kết quả.
Người dân Canada phải phản đối mạnh mẽ những thông lệ như vậy để nó không thể trở thành một phần của quá trình bầu cử của chúng ta.
Một trò lừa đảo chính trị vĩ đại
Những gì bắt đầu, trông giống như một cuộc bầu cử lành mạnh trong ngày bầu cử 03/11, với một số con đường chiến thắng đầy hứa hẹn cho tổng thống đương nhiệm, đã trở thành một sự đảo ngược chậm chạp sau bầu cử đối với sự dẫn đầu của ông Donald Trump tại các tiểu bang chiến trường, và một kết quả gây tranh cãi có lợi cho ứng cử viên của Đảng Dân Chủ. Rất nhiều người tin rằng [ông Biden] có thể [không có khả năng] hoàn thành một nhiệm kỳ đầy đủ
Người dân Hoa Kỳ có thể không bao giờ hoàn toàn biết chắc chắn những kẻ nào đã bỏ tất cả các phiếu bầu ẩn danh, mà có thể đã trao cho ông Joe Biden chức tổng thống, hoặc có bao nhiêu phiếu có thể đã được thu hoạch bất hợp pháp từ hàng triệu lá phiếu được phân phát trên khắp Hoa Kỳ.
Từ [người dẫn chương trình truyền hình] Jedediah Bila của Fox News, cho đến nhiều chuyên gia truyền thông dòng chính trên khắp đất nước, người dân Hoa Kỳ hiện đang được hướng dẫn chấp nhận kết luận rằng “không có bằng chứng về gian lận cử tri”. Thủ đoạn này tương tự một cách kỳ quái giống như của các băng đảng Mafia, những kẻ bất chấp sự thật rằng xác kẻ thù của họ ở trên khắp các đường phố, mà vẫn nhìn vào mắt các nhà chức trách và nói, “Các người không thể chứng minh được gì cả, đồ khờ!”.
Tuy nhiên, có một điều chắc chắn: Khoảng một nửa số người dân Hoa Kỳ và rất nhiều bạn bè của Hoa Kỳ trên khắp thế giới, đều xem cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2020 là một thất bại của tiến trình dân chủ, và là một trò lừa đảo chính trị vĩ đại.
William Brooks là một nhà văn và nhà sư phạm, sống tại [thành phố] Montreal, [Canada]. Hiện, ông là biên tập viên của tờ “The Civil Conversation” [“Cuộc trò chuyện dân sự”] cho Hiệp hội công dân Canada, và là cộng tác viên của The Epoch Times.
Quan điểm được trình bày trong bài viết này là ý kiến của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.