Cứu lấy các Tomboy: Hàng thập niên tư tưởng tình dục tự do đã xóa sổ phụ nữ như thế nào
Thuở thiếu thời, ngày nào tôi cũng do dự giữa váy xòe màu hồng và bộ đồ thể thao tennis, cũng như giữa giày múa ba lê và giày thể thao. Tôi đồng thời muốn chơi trò “British Bulldog” với anh trai và các anh em họ của mình và lại cũng muốn trông giống như một người mẫu trang phục áo tắm trên bìa tạp chí Sports Illustrated. Tôi luôn cảm thấy đôi chút không thoải mái khi là một cô gái đầy nữ tính mặc váy và trang điểm đậm, nhưng lại vẫn muốn các bạn nam thích mình.
Giống như hầu hết thanh thiếu niên, tôi đã đấu tranh để hiểu danh tính và vị trí của mình trong thế giới này. Tuy nhiên, bố mẹ tôi chưa bao giờ đắn đo về giới tính hay tính hướng của tôi. Chắc chắn, không có giáo viên hoặc người lớn giám sát nào khác ở trường từng hỏi tôi rằng tôi cảm thấy mình thuộc giới tính nào. Tôi là một cô gái. Bất chấp những bộ trang phục tôi mặc hay những môn thể thao tôi chơi, tôi đã, đang, và sẽ luôn là nữ.
Đã từng có một cái tên cho những cô gái như tôi. Chúng tôi được gọi một cách trìu mến là tomboy. Chúng tôi cảm thấy thoải mái hơn khi trèo cây và, trong trường hợp của tôi, là đu mình trên dây leo, hơn là chơi hóa trang. Tuy nhiên, do nhiều thập niên tư tưởng giới tính cấp tiến và sự tan rã của các chuẩn mực về giới tính, thì tomboy đang có nguy cơ biến mất cùng với là rất nhiều phiên bản, sắc thái, và cách thức thể hiện khác của nữ tính.
Danh pháp từng được chấp nhận rộng rãi này đang bị thách thức không chỉ bởi những thanh thiếu niên cảm thấy mình sinh ra trong cơ thể không phù hợp mà còn bởi cả những bậc cha mẹ thừa nhận điều thường được gọi là chứng phiền muộn giới. Điều này được định nghĩa là sự đau khổ gây ra bởi sự khác biệt giữa nhận dạng giới tính của một người và giới tính được ấn định cho họ khi sinh. Việc xác nhận mù quáng về tình trạng tâm lý này mang lại những cái giá rất đắt, đặc biệt là đối với phụ nữ. Nhưng hệ tư tưởng đằng sau tình trạng đó đã không xuất hiện một cách ngẫu nhiên.
Định nghĩa về phụ nữ
Để chứng minh bất kỳ tuyên bố nào cho rằng phụ nữ đang bị xóa sổ, sẽ rất hữu ích khi định nghĩa thế nào là một người phụ nữ. Cả các từ điển trực tuyến đương đại và các bản in cũ hơn đều định nghĩa một người phụ nữ là “một người nữ đã trưởng thành”. Từ điển Cambridge trực tuyến tuyên bố rằng “một người trưởng thành, người mà sinh sống với tư cách và nhận định mình là phụ nữ mặc dù họ có thể được cho là có giới tính khác khi sinh” là một người phụ nữ. Cả hai phiên bản trực tuyến và in của từ điển này đều sử dụng từ phụ nữ trong định nghĩa của mình và, theo kiểu vòng tròn, định nghĩa về nữ giới là “liên quan đến hoặc trạng thái là một phụ nữ hoặc một cô gái.” Còn phiên bản định nghĩa của Webster thì nói rằng phụ nữ là “giới tính thường có khả năng sinh con hoặc sản sinh ra trứng.”
Tuy nhiên, một bản sao của The American Heritage Dictionary (Từ điển Di Sản Hoa Kỳ) từ cuối những năm 1970 xác nhận rằng các định nghĩa trực tuyến đã thay đổi để phù hợp với các niềm tin văn hóa, một kỹ thuật lâu năm của giáo điều cấp tiến. Giới nữ không phải là giới tính thường có khả năng sinh con hoặc sản sinh ra trứng, mà là “thuộc, liên quan đến, hoặc chỉ định giới tính sản sinh ra trứng hoặc sinh con” hoặc “có đặc điểm hoặc phù hợp với giới tính này.” Cho đến gần đây, một người phụ nữ vẫn được định nghĩa một cách chắc chắn bằng khả năng sản sinh ra trứng và sinh con của mình.
Một từ điển về nguồn gốc của các từ cho thấy một người phụ nữ là một từ ghép của “vợ + người đàn ông” từ tiếng Anh cổ. Gốc của từ male được mượn từ tiếng Pháp cổ là “ý nghĩa trong cơ học của một bộ phận được thiết kế để lắp vào bên trong một bộ phận tương ứng để tạo kết nối.” Điều này gợi ý rằng đặc điểm nổi bật của một người phụ nữ nằm ở khả năng quan hệ tình dục với một người đàn ông như đã nêu trong sách Sáng Thế Ký 2:24: “Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ trở nên một thịt” (bản dịch trên trang VietChristian — nhóm dịch giả).
Từ để chỉ người phụ nữ trong tiếng Do Thái là ishah. Adam không trở thành đàn ông trong Kinh Thánh cho đến khi Chúa lấy một phần thân thể của Adam và tạo ra một người phụ nữ. Cho đến lúc đó, Adam là một thuật ngữ trung lập có nghĩa là con người. Adam không được gọi là đàn ông hay ish trong tiếng Do Thái cho đến khi ishah được tách ra khỏi anh ta. Văn bản này ngụ ý rằng nam và nữ không thể tự xác định mình hoàn toàn là con người nếu không có người kia.
Trong hơn một thế kỷ, khoa học đã chấp nhận định nghĩa sinh học của phụ nữ là sự kết hợp của hai nhiễm sắc thể X. Tuy nhiên, để phù hợp với sự biến mất của các chuẩn mực văn hóa về giới tính, tất cả mọi người, từ các nhà khoa học đến các nhà nữ quyền, giờ đây đang tìm cách biến đổi tất cả các ý nghĩa truyền thống, giảm phụ nữ thành một phạm trù con người mơ hồ không có ý nghĩa lịch sử, sinh học, hay Thần học.
Chủ nghĩa nữ quyền và sự chối bỏ phụ nữ
Thay vì là một phong trào đơn lẻ cần thiết để đạt được sự bình đẳng và bảo vệ phụ nữ, nữ quyền đã trở thành một danh sách bất bình không hồi kết thay đổi nhanh như tâm trạng của một phụ nữ mãn kinh. Các yêu cầu liên quan đến sự giao thoa của các yếu tố gây áp bức và đặc quyền (intersectionality) cũng như không gian an toàn của các nhà nữ quyền ngày nay khác xa với những bất bình hồi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Việc biểu tình phản đối và hoạt động tích cực của những phụ nữ như bà Myra Bradwell, bà Elizabeth Cady Stanton, và bà Lucretia Mott đã chấm dứt việc xác định người phụ nữ là tài sản của chồng họ và giành được cho phụ nữ quyền sở hữu tài sản, quyền được đi làm, và quyền bầu cử.
Phụ nữ có nhiều tự do hơn để lựa chọn cách họ muốn thể hiện bản thân với thế giới về mặt cá nhân, nghề nghiệp, và chính trị.
Thay vì tôn vinh tất cả các biểu hiện sắc thái của nữ tính, các nhà nữ quyền của thập niên 60 và 70 đã chỉ huy một chiến dịch quan tâm hơn đến việc thúc đẩy phụ nữ tự do về tình dục và độc lập về tài chính. Thay vì mở rộng sự lựa chọn cho nữ giới, phong trào này đã làm giảm các lựa chọn này. Phụ nữ được khuyến khích giải phóng bản thân khỏi một nền văn hóa gia trưởng đòi hỏi họ phải ở nhà và chăm sóc gia đình. Chồng con là những hạn chế đối với quyền được tự do thể hiện thực sự con người chân thực của một người phụ nữ. Những phụ nữ tham gia vào các vai trò truyền thống về giới tính trong gia đình bị xa lánh và bị coi là những kẻ phản bội phong trào này.
Làn sóng nữ quyền thứ hai bắt đầu mở ra một giáo phái phụ nữ dường như không thoải mái với bản chất của nữ giới. Trong khi các nhà nữ quyền sớm nhất cho rằng đàn ông đã nhầm lẫn và đánh giá thấp bản chất của phụ nữ, thì các nhà nữ quyền như bà Simone de Beauvoir đã đi xa hơn khi lập luận rằng bất kỳ bản chất cố định nào của phụ nữ đều nhất định là sai lầm. Bà có một câu nói nổi tiếng, “Không ai sinh ra đã là phụ nữ, mà họ trở thành một người phụ nữ.”
Các phong trào này từ chối chấp nhận sự khác biệt về giới tính và sinh sản giữa nam và nữ, cũng như vai trò của họ trong gia đình. Theo các nhà nữ quyền hiện đại, hôn nhân và thiên chức làm mẹ là những cái bẫy do đàn ông tạo ra, chứ không phải là món quà do Thượng Đế ban tặng. Các trọng trách gia đình là hạn chế và hạ thấp [đối với người phụ nữ].
Các phong trào nữ quyền hiện đại không theo đuổi cơ hội bình đẳng nhiều như việc thể hiện mong muốn hoàn toàn không phụ thuộc vào nam giới, dẫn đến điều mà ông Harvey Mansfield gọi là chủ nghĩa hư vô của phụ nữ. Dường như có sự coi thường nếu không muốn nói là trực tiếp khinh bỉ hoàn toàn đối với những phẩm chất và sức mạnh độc nhất của phái nữ vốn dùng để tập trung và định hướng những thôi thúc tình dục tự nhiên của đàn ông và mang lại sự sống. Thay vì sử dụng những phương cách của phụ nữ để thuần phục đàn ông, phụ nữ hiện đại lại chà đạp lên sự nam tính của đàn ông.
Các nhà nữ quyền đương đại có một sở thích kỳ lạ là không muốn bị định nghĩa bởi bất kỳ ai, càng không phải là một đàn ông, như thể hư vô là một lựa chọn ưu việt hơn so với việc là một người phụ nữ. Trong khoảng trống [vô định nghĩa] này, phụ nữ có thể là bất cứ thứ gì họ muốn, kể cả là một người nam.
Nới lỏng đạo đức tình dục
Thay vì sử dụng ảnh hưởng của nữ giới để nâng cao đạo đức tình dục của nam giới sao cho xứng với đức hạnh của người phụ nữ trong phương diện này như các nhà nữ quyền trước đó từng làm, các nhà nữ quyền hiện đại mong muốn hạ thấp đạo đức của nữ giới để tương ứng với nam giới. Họ mong muốn cùng một cảm giác tự do, khoái cảm, và làm chủ về tình dục mà nam giới cảm thấy mà không phải chịu ‘tác dụng phụ’ lộn xộn của những đứa trẻ sơ sinh. Vào những năm 60, việc sử dụng rộng rãi thuốc tránh thai đã khiến phụ nữ có thể quan hệ tình dục không phải phép. Điều này đã ngắt sự kết nối giữa hành động tạo ra khoái lạc với hành động sinh sản, loại bỏ nhu cầu kết hôn. Cuộc cách mạng tình dục của những năm 60 và 70 đã xóa bỏ yêu cầu về sự trong trắng, và ngược lại khi làm vậy, cũng xóa bỏ mọi điều kiện tiên quyết để một người đàn ông hành động hào hiệp hoặc nâng cao địa vị xã hội của anh ta để có được tình nhân hoặc cư xử theo cách xứng đáng hơn với vai trò của một người chồng.
Nếu kiểm soát sinh sản mang lại quyền tự do cho phụ nữ thể hiện bản thân về phương diện tình dục mà không gây hậu quả, thì việc phá thai cho phép từ bỏ mọi quyền tự chủ có thể có ở cả nam lẫn nữ. Trong khi nhiều người Mỹ hiểu rằng việc chấp nhận phá thai như một giải pháp thay thế dễ dàng sẽ thay đổi các quy tắc của quá trình tìm người để kết hôn và làm đảo lộn việc chế ngự hành vi tấn công tình dục công khai của nam giới, thì nhiều người lại gặp khó khăn với những tác động đạo đức của việc chối bỏ cách làm này.
Những lo ngại về sức khỏe của người mẹ, hành vi cưỡng gian, loạn luân, và các trường hợp dị tật bẩm sinh đều được xem là những lý do khả thi để phá thai với sự cản trở tối thiểu. Thật khó để cân nhắc giữa hai ý kiến với nhau, nhưng, theo tác giả Christopher Caldwell trong cuốn sách nổi tiếng của ông, “The Age of Entitlement” (Thời Đại Có Quyền), người Mỹ “thiếu một khuôn khổ đạo đức cho phép họ suy nghĩ về việc phá thai một cách hợp lý và tự tin.” Án lệ Roe kiện Wade đã mở ra một xã hội chỉ ngày càng đặt nặng hơn yêu cầu đối với tự do tình dục. Ông Caldwell viết, bất kỳ hy vọng nào “rằng đạo đức tình dục truyền thống có thể tồn tại sau sự ra đời và xóa bỏ kỳ thị đối với việc phá thai đều là viển vông.”
Khi khăng khăng đòi nới lỏng các chuẩn mực văn hóa và luật lệ đối với tình dục của phụ nữ, các nhà nữ quyền đã nới lỏng quy chuẩn cho tất cả mọi người. Làn sóng chủ nghĩa nữ quyền thứ hai đã trở thành bước đệm cho các hệ tư tưởng tình dục tự do hơn. Có nhiều nữ giới hơn nam giới ủng hộ hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới hồi năm 2007. Mặc dù khó tìm được số liệu thống kê, nhưng có thể nói rằng những người ủng hộ các quyền tự do mới dành cho phụ nữ chuyển giới, chẳng hạn như quyền tiếp cận nhà tù, phòng thay đồ, và các cuộc tranh tài thể thao của nữ, nghiêng về phụ nữ nhiều hơn. Những phụ nữ xem mình là nạn nhân của nền văn hóa gia trưởng đã trở thành đồng minh của các nhóm thiểu số và bị tước quyền khác, mặc dù thực tế là nữ giới đông hơn và thường vượt trội hơn so với nam giới trong các trường đại học, trường y, và nhiều ngành nghề.
Khoảng thời gian đầu những năm 2000 đã chứng kiến việc gia tăng chấp nhận người đồng tính nam dần trở thành một xu hướng chủ đạo. Các chương trình như “Queer Eye for the Straight Guy”, “Will and Grace”, và “Sex in the City” đã biến những người đồng tính nam từ bị xã hội tẩy chay thành bạn thân của phụ nữ. Những người đồng tính nam cung cấp sự đồng hành cho một đối tác khác giới mà không có sự phức tạp của quan hệ tình dục mà đôi khi có thể gây nhầm lẫn và lộn xộn cho một mối quan hệ còn non trẻ. Phụ nữ nhận được sự trợ giúp về mặt tinh thần từ những người bạn đồng tính của họ mà người bạn trai, phối ngẫu, hoặc thậm chí là các bạn nam có khả năng trở thành chồng tương lai không phải lúc nào cũng được trang bị đầy đủ để cung cấp.
Thật vậy, theo một nghiên cứu năm 2009, “nhiều phụ nữ cho biết lòng tự trọng và cảm giác bản thân hấp dẫn của họ được nâng cao nhờ được bạn bè đồng tính chú ý.” Thay vì chật vật với những thử thách từ người khác giới, ngày càng có nhiều phụ nữ bắt đầu tìm kiếm sự an ủi ở những người bạn đồng tính nam, đặc biệt là ở các khu vực thành thị, càng làm tăng thêm vực sâu ngăn cách giữa hai giới.
Hãy tua nhanh [về thời hiện đại để] đến một nền văn hóa mà giờ đây gọi những phụ nữ bán thân vì tiền là “lao động tình dục” chứ không phải là gái mại dâm — như thể đây là một con đường sự nghiệp cao quý hoặc là điều mà những người phụ nữ này chọn thay vì một số nghề nghiệp đáng tôn trọng khác chứ không phải là vì hoàn cảnh khó khăn. Đó là một thế giới méo mó khi xã hội tin rằng việc ủng hộ sự suy đồi của nữ giới sẽ nâng tầm phụ nữ lên.
Khi đó, chúng ta không nên ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng nhiều phụ nữ trẻ không còn nhận thức được giá trị của việc là nữ giới. Chúng ta đã biến những gì khiến phụ nữ trở nên đặc biệt và quý giá thành không gì hơn là những bộ phận cơ thể có thể được dễ dàng mua bán, trao đổi, hoặc cắt xẻo.
Sự tăng trưởng của phiền muộn giới tính
Theo dữ liệu mà Komodo Health tổng hợp cho Reuters, “Năm 2021, có khoảng 42,000 trẻ em và thanh thiếu niên trên khắp Hoa Kỳ được chẩn đoán mắc chứng phiền muộn giới tính, cao gần gấp ba lần con số hồi năm 2017.”
Trong khi tỷ lệ phần trăm và số lượng người trưởng thành xác định là người chuyển giới vẫn tương đối ổn định, số lượng thanh thiếu niên được xem là chuyển giới đã tăng hơn gấp đôi trong những năm gần đây.
Phong trào chuyển giới có ảnh hưởng không tương xứng đến phụ nữ trẻ. Trẻ em mắc chứng phiền muộn giới hiện nay hầu hết là trẻ em gái. Bà Abigail Shrier, tác giả của cuốn sách gây tranh cãi gay gắt “Irreversible Damage” (Thiệt Hại Không Thể Đảo Ngược), cho rằng phần lớn điều này là do sự lây lan xã hội. Nhiều chuyên gia đồng ý rằng các bé gái dễ bị ảnh hưởng từ bạn đồng trang lứa hơn các bé trai. Ngoài ra, trong hầu hết các trường hợp, các vấn đề về sức khỏe tâm thần đã xảy ra trước khi có chứng phiền muộn. Mạng xã hội, đặc biệt là các phương tiện truyền tải trực quan như Instagram và TikTok, đã góp phần làm gia tăng nhanh chóng tình trạng trầm cảm, lo lắng, và bất ổn tinh thần ở thanh thiếu niên.
Các cô gái dễ bị ảnh hưởng bởi hàng loạt những ảnh và video được chọn lọc và chỉnh sửa, thúc đẩy chứng rối loạn hình thể và các bệnh tâm lý khác, chẳng hạn như rối loạn ăn uống. Tóm lại, phụ nữ trẻ đặc biệt dễ bị gây ấn tượng trong vấn đề liên quan đến cơ thể của họ.
Cho đến gần đây, những cô gái muốn thể hiện sự nổi loạn hoặc bản sắc cá nhân đã làm như vậy (gây ấn tượng) bằng cách trang điểm toàn màu đen, nhuộm tóc màu tím, hoặc mặc những bộ trang phục khiến cha mẹ họ khó chịu. Trong khi kiểu hành xử thiếu thận trọng tuổi teen này chắc chắn khiến cha mẹ bực tức, thì trong lịch sử quá khứ, những quyết định tồi tệ của các cô gái lại khá vụn vặt. Các cô gái thường trưởng thành khỏi giai đoạn không biết vâng lời hoặc tích hợp sự kích động của họ vào các lựa chọn nghề nghiệp hoặc lối sống, chọn những cách lành mạnh để thể hiện bản thân và giới tính của họ.
Nhưng giờ đây, các cô gái đang phải đối mặt với thiệt hại không thể đảo ngược, như bà Shrier đã đặt tên cho cuốn sách của mình một cách khéo léo. Một nghiên cứu nổi tiếng được thực hiện về thuốc ức chế dậy thì của Dịch vụ Phát triển Nhận dạng Giới tính (GIDS) của Tavistock, phòng khám chuyên khoa giới tính duy nhất dành cho trẻ em của Dịch vụ Y tế Quốc gia ở Anh, cho thấy 98% trẻ em bắt đầu sử dụng thuốc ức chế dậy thì khi còn trẻ sẽ chuyển sang sử dụng hormone liên giới tính, dẫn đến khả năng vô sinh và suy giảm chức năng tình dục. Ngoài rối loạn chức năng cơ quan sinh dục, theo Mayo Clinic, thuốc ức chế tuổi dậy thì cũng có thể gây ra tác dụng phụ lâu dài ảnh hưởng đến tốc độ trưởng thành cũng như mật độ và sự phát triển của xương.
Trong khi đó, hầu hết tất cả các lợi ích của việc kìm hãm tuổi dậy thì (vốn đang bị tranh cãi rộng rãi) là về mặt tâm lý, trong đó có cải thiện sức khỏe tinh thần, giảm trầm cảm và lo lắng, đồng thời cải thiện các tương tác xã hội và hòa nhập với những đứa trẻ khác. Những bé gái này không cần trì hoãn tuổi dậy thì — các em cần các bậc cha mẹ trưởng thành và các nhà tâm lý học thành thạo trong việc điều trị chứng phiền muộn giới.
Đây có lẽ là khía cạnh bi thảm nhất của cuộc tranh luận về xác định lại giới tính. Chính những người lẽ ra phải hiểu rõ hơn — những người lớn như các bậc cha mẹ, các nhà tâm lý học, và các bác sĩ — lại vui vẻ khẳng định những ảo tưởng của trẻ em, cho dù đó chỉ là những suy nghĩ mộng mơ bất chợt do áp lực của bạn bè hay một cuộc đấu tranh thực sự với nhận dạng giới tính.
Chức năng điều hành của bộ não, một chức năng chịu trách nhiệm hoạch định dài hạn và đưa ra các quyết định sáng suốt và hợp lý, nằm ở thùy trán, hoặc vỏ não trước trán. Khoa học đã chứng minh rằng phần não này không phát triển đầy đủ cho đến tuổi 25. Các bậc cha mẹ phải chịu trách nhiệm về những đứa trẻ vốn không thể hiểu được hậu quả lâu dài từ các quyết định của các em. Trong mọi trường hợp, một thiếu niên không thể đưa ra sự đồng thuận có ý nghĩa đối với các quyết định mà họ có thể sẽ hối hận sau này.
Nhiều cô gái tìm kiếm “phẫu thuật thân trên” (top surgery), một uyển ngữ cho phẫu thuật cắt bỏ bộ ngực. Những bệnh nhân ung thư vú trải qua thủ thuật này để giữ gìn mạng sống hoặc những phụ nữ cần cắt bỏ tử cung đều biết rằng một cuộc phẫu thuật như vậy có thể tàn phá đến mức nào. Nhiều người có một cảm giác mất mát to lớn, như thể một phần cốt lõi trong bản chất của họ đã biến mất. Việc những cô gái khỏe mạnh tự nguyện mổ xẻ một phần cơ thể của mình trong khi rất nhiều phụ nữ sẵn sàng làm bất cứ điều gì để giữ cho phần cơ thể này của họ được nguyên vẹn là một điều tương phản ghê gớm. Thực tế này hạ thấp và làm mất tinh thần của nữ giới và làm giảm vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Nhưng phụ nữ trưởng thành, nhiều người trong số họ giữ một quan điểm cấp tiến hơn về tính dục, lại cho phép điều đó.
Các nhà nữ quyền và những người ủng hộ người chuyển giới thời hiện đại dường như có nhiều điểm chung nhưng không có điểm chung nào rõ ràng như sự khinh miệt mạnh mẽ đối với thực tế. Sau khi xem hàng trăm clip trên mạng xã hội, thật khó để phủ nhận rằng cả hai loại phụ nữ này đều có sự oán giận. Những người này thường ôm giữ một hồ chứa đầy sự bất mãn và không hài lòng với con người của họ và cách Chúa đã tạo ra họ. Sự tức giận này nhắm vào nam giới, những phụ nữ truyền thống hơn, xã hội nói chung, hoặc chính họ.
Thách thức những vai trò truyền thống mà phụ nữ đảm nhận trong xã hội và những quy tắc mà tại một thời điểm trong lịch sử có thể đã ngăn cản họ vượt ra ngoài những quan niệm hạn chế về vai trò của nữ giới là một chuyện. Nhưng việc khẳng định bất kỳ ai, kể cả một nam nhân, đều có thể trở thành một phụ nữ lại là một chuyện hoàn toàn khác.
Các sự kiện hiện tại
Tất cả những người đấu tranh cho nữ quyền đã ở đâu khi đáng lẽ ra họ phải tức giận vì nam giới về mặt sinh học giành lấy giải thưởng và học bổng của nữ giới? Mặc dù một số phụ nữ nổi tiếng, chẳng hạn như nhà văn J.K. Rowling, đã lên tiếng chống lại những điều phi lý như vậy, nhưng hầu hết những người như bà đều bị dập tắt với phản ứng dữ dội kiểu săn mồi. Các cá nhân TERF (từ viết tắt của thuật ngữ “trans-exclusionary radical feminist”, chỉ những người theo chủ nghĩa nữ quyền cấp tiến nhưng lại kỳ thị người chuyển giới nữ), như họ được mệnh danh, bị chỉ trích và nhanh chóng bị xem là người sợ người chuyển giới và là nguy hiểm đối với lòng tự trọng mong manh của người chuyển giới.
Có thể những người phụ nữ còn lại im lặng vì họ biết họ đã góp phần phổ biến một hệ thống dẫn đến sự hủy hoại của phụ nữ. Có thể là do những người này không ủng hộ việc phụ nữ chấp nhận và bảo vệ chính thứ đã khiến họ trở nên có quyền lực — tử cung của họ. Thay vào đó, họ đánh giá thấp ảnh hưởng về tính dục của người phụ nữ trong quá trình tìm hiểu người hôn phối và khăng khăng rằng phụ nữ phải trở nên giống đàn ông hơn. Họ bác bỏ ý kiến cho rằng việc sinh con có thể là thành tựu đáng kinh ngạc nhất của việc làm người. Khi làm như vậy, họ đã khiến hàng triệu phụ nữ trở nên không hài lòng và vỡ mộng trước sự tuyệt vời về mặt sinh học của họ.
Thật trớ trêu thay, điều mà nhiều nhà nữ quyền dường như không thể hiểu được là bằng cách nhất quyết yêu cầu xã hội đối xử với họ giống nam giới hơn, thì họ đã củng cố chính chế độ gia trưởng và nam tính độc hại mà họ phản đối rất gay gắt. Nhiều phụ nữ phàn nàn rằng không có bất kỳ người đàn ông nam tính, mạnh mẽ nào ngoài kia mà không hiểu rằng chính họ là nguyên nhân đã làm suy yếu tính chất cương cường đó. Trong khi phụ nữ bận chiếm lấy các vị trí của nam giới trong phòng họp và phòng ngủ, thì đàn ông cũng không đảm nhận vai trò của phụ nữ — họ chỉ đơn giản là cảm thấy bị chối bỏ và không biết phải cư xử như thế nào trong một nền văn hóa tính dục mới.
Nhiều người đàn ông đối xử với phụ nữ đúng như cách phụ nữ đã yêu cầu — như với một đấng mày râu. Họ không còn phải tuân thủ các chuẩn mực và ranh giới tính dục mà phụ nữ từng đặt ra cho họ, và họ đã tận dụng tối đa sự tự do này. Sự gia tăng số lượng nội dung khiêu dâm và hành vi tấn công tình dục phản ánh những thực tế đó.
Nữ tính có rất nhiều biểu hiện. Giống như một số nam giới có nhiều phẩm chất ẻo lả hơn, một số phụ nữ thể hiện những đặc điểm nam tính hơn, cả về thể chất lẫn hành vi. Có những nàng công chúa và có các cô tomboy. Thật kỳ diệu biết bao khi được chứng kiến những bé gái lớn lên trở thành các diễn viên hoặc chính trị gia, điều dưỡng hoặc vận động viên, và những người mẹ, người vợ. Các nhà nữ quyền thế hệ đầu tiên đã mở đường cho sự tiến bộ và quyền tự chủ như vậy. Các nhà hoạt động nữ quyền cấp tiến và nền văn hóa tính dục mà họ tạo ra đang phá hủy thành tựu này, và họ đang lôi kéo những cô nàng tomboy, và nhiều cô gái khác nữa của chúng ta, đi theo con đường của họ.
Nhóm tin tức Anh ngữ Epoch Times Tiếng Việt biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times