Có phải phương Tây đang tách rời khỏi Trung Quốc?
Ngay cả trước khi cựu Tổng thống (TT) Hoa Kỳ Donald Trump bắt đầu “cuộc chiến thương mại” năm 2019 với Trung Quốc, các nhà hoạch định chính sách đã bắt đầu đặt câu hỏi về việc tách rời hai nền kinh tế.
Những cuộc thảo luận đó là một phản ứng đối với mối quan hệ cùng phụ thuộc lẫn nhau đã phát triển theo thời gian. Sự phát triển của Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào dòng xuất cảng ngày càng tăng sang phương Tây, trong khi các nền kinh tế phương Tây phát triển có lẽ phụ thuộc quá mức vào các sản phẩm rẻ tiền của Trung Quốc. “Chiến tranh thương mại”, cũng như đại dịch năm 2020, đã làm tăng cường độ của các cuộc thảo luận này.
Sau đại dịch các câu hỏi vẫn còn đó, nhưng các vấn đề đã trở nên phức tạp hơn. Bằng chứng đáng kể cho thấy rằng trật tự cũ đang mờ dần, rằng một sự tách rời trên thực tế đang diễn ra. Nhưng đồng thời, các bằng chứng khác lại cho thấy mối quan tâm mới của phương Tây đối với Trung Quốc đang thay thế điều này.
Sự thay đổi đã tạo ra một sự pha trộn thú vị của các câu chuyện truyền thông. Ví dụ, một báo cáo đã dẫn lời đối tác quản lý khu vực Á Châu của một công ty luật lớn trên toàn cầu. Ông mô tả cách các khách hàng doanh nghiệp của mình ở Âu Châu và Hoa Kỳ “kinh hãi” về “dòng chảy” trong chuỗi cung ứng toàn cầu đã được thiết lập, buộc hội đồng quản trị doanh nghiệp phải chú ý đến việc tách rời khỏi Trung Quốc.
Trái lại, một câu chuyện khác lại mô tả sự hào hứng của một chuyên gia ngân hàng đầu tư nổi tiếng về cơ hội tăng trưởng và phát triển ở Trung Quốc, cũng như cách họ thu hút dòng vốn đầu tư từ phương Tây. Câu chuyện này lưu ý cách 27 công ty nổi tiếng của Âu Châu đang rót thêm tiền vào các liên doanh ở Trung Quốc của họ.
Đây chỉ là hai minh họa về bản chất khác nhau của các bằng chứng. Dù sao thì chúng cũng chỉ là dấu hiệu.
Câu chuyện đầu tiên trong số những câu chuyện tin tức này ghi nhận sự lu mờ của những trật tự cũ. Những trật tự này dẫn ta quay trở lại thời điểm bắt đầu giao thương của Trung Quốc với phương Tây. Mức lương ở Trung Quốc thấp, đặc biệt là so với Hoa Kỳ, Nhật Bản, và Âu Châu. Và Trung Quốc có một lực lượng lao động lớn, có kỷ luật, được giáo dục tốt. Trên cơ sở đó, quốc gia này đã bán mình cho thế giới – một cách cũng rất hiệu quả – như một điểm hấp dẫn để cung ứng nguồn hàng. Tiền từ Hoa Kỳ và phần còn lại của các nước phát triển đổ vào Trung Quốc để xây dựng các nhà máy sản xuất hàng hóa với giá rẻ để xuất cảng trở lại quê nhà của từng nhà đầu tư cũng như các thị trường khác. Nhưng qua nhiều năm khi Trung Quốc phát triển, thì tiền lương đã tăng lên. Lao động Trung Quốc có vẻ ít rẻ hơn, khiến những thỏa thuận ban đầu này kém hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp phương Tây. “Chiến tranh thương mại” năm 2019 và sau đó là đại dịch năm 2020 càng làm giảm sức hấp dẫn của những thỏa thuận này.
Câu chuyện thứ hai trong số những tin bài này là về một mối quan tâm khác, mới hơn của phương Tây đối với Trung Quốc. Khi mô hình xuất cảng cũ tạo điều kiện cho sự phát triển của Trung Quốc, một tầng lớp tiêu dùng ngày càng lớn và thịnh vượng hơn đã xuất hiện. Vì vậy, ngay cả khi các doanh nghiệp phương Tây xem xét lại các thỏa thuận cũ, họ đã nhìn thấy những cơ hội mới để đầu tư vào Trung Quốc, không phải để sản xuất để xuất cảng trở lại thị trường quê nhà của họ, mà là sản xuất sản phẩm với thương hiệu của họ ở Trung Quốc và do đó bảo đảm được một vị trí thuận lợi để bán cho thị trường nội địa Trung Quốc giàu có.
Sự thay đổi này bắt đầu với việc thay đổi tính toán chi phí. Hai mươi năm trước, khi Trung Quốc lần đầu tiên gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mức lương ở đây có vẻ rất thấp so với Âu Châu, Hoa Kỳ, và Nhật Bản, cũng như một phần lớn các quốc gia mới nổi. Nhưng các khoản đầu tư to lớn vào Trung Quốc bởi ở đây có nguồn lao động giá rẻ, đã làm tăng nhu cầu đối với người lao động và do đó, mức lương của người Trung Quốc cũng tăng lên tương ứng. Chi phí của Trung Quốc bắt đầu bắt kịp với phần còn lại của thế giới và đã bắt kịp một cách nhanh chóng. Ví dụ, từ năm 2015 đến năm 2020, mức lương trung bình theo giờ ở Trung Quốc, theo Cục Thống kê Bắc Kinh, đã tăng 9.0% một năm, tăng hơn 53% chỉ trong 5 năm đó. Ở Hoa Kỳ, so sánh, tiền lương theo giờ trong thời gian này tăng khoảng 5.0%. Khoảng cách chi phí đã được thu hẹp nhanh chóng, và các doanh nghiệp phương Tây đã bắt đầu để ý nơi khác có chi phí cung ứng thấp hơn-tới Việt Nam, Indonesia, Malaysia, và nơi khác ở Á Châu.
“Chiến tranh thương mại” năm 2019 đã đẩy nhanh tốc độ thay đổi này. Thuế quan áp lên hàng hóa Trung Quốc làm tăng chi phí đưa hàng hóa trở lại thị trường nội địa của Hoa Kỳ, thúc đẩy người Mỹ tăng tốc độ chuyển dịch sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Trong khi đó, các nhà sản xuất Trung Quốc, để tránh thuế quan của Hoa Kỳ, đã chuyển hoạt động sản xuất của họ sang Việt Nam, Indonesia, và các nơi khác.
Sau đó trong đại dịch, Trung Quốc đã hạn chế xuất cảng một số sản phẩm quan trọng. Quyết định của Bắc Kinh chắc chắn là có thể hiểu được trong hoàn cảnh này, nhưng quyết định này của Bắc Kinh vẫn khiến các công ty phương Tây đang tìm kiếm nguồn hàng ở ngoại quốc đặt ra câu hỏi về độ tin cậy [của Trung Quốc].
Tổng dòng vốn đầu tư vào các nước Á Châu khác nhau khẳng định bức tranh chung này. Trong khi cách đây không lâu, với phần lớn đầu tư trực tiếp của phương Tây vào Á Châu tập trung ở Trung Quốc, bức tranh [nay] đã thay đổi hoàn toàn. Trong 5 năm qua, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, dòng vốn đầu tư trực tiếp từ phương Tây vào Trung Quốc đã tăng khoảng 34,3%, trung bình 6,1% một năm, chậm hơn nhiều so với trước đây. Ngược lại, dòng chảy vào Indonesia, một lựa chọn thay thế phổ biến, đã tăng 55.6%, trung bình 9.2% một năm; trong khi dòng chảy vào Việt Nam đã tăng tới 87%, trung bình 13.3% một năm.
Sự hòa trộn của các khoản đầu tư vào Trung Quốc càng khẳng định sự chú trọng mới của phương Tây. Trong khi trước đây, phần lớn các khoản đầu tư trực tiếp tập trung vào lĩnh vực sản xuất, phần lớn là để xuất cảng sang các nền kinh tế nội địa của chính các nhà đầu tư, thì các dòng vốn đầu tư gần đây lại tập trung vào dịch vụ và bán lẻ ở Trung Quốc. Số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ thể hiện câu chuyện này rất rõ. Trong vài năm qua, chỉ có 30% dòng vốn đầu tư trực tiếp dành cho lĩnh vực sản xuất. 60% dòng vốn đã chuyển sang dịch vụ và đặc biệt là bán lẻ. Những khoản tiền này rõ ràng nhằm mục đích tận dụng thị trường nội địa ngày càng giàu có của Trung Quốc, một bức tranh rất khác so với quá khứ không lâu.
Vì vậy, có vẻ như cả hai phía của câu chuyện tách rời này đều hướng tới một cái gì đó. Có sự tách rời rõ ràng khỏi Trung Quốc như là một nguồn cung ứng sản phẩm. Theo lời của vị luật sư nêu trên, các chuỗi cung ứng thực sự đang “thay đổi” và chuyển dịch từ Trung Quốc sang các nơi khác ở Á Châu. Đồng thời, sự hấp dẫn của thị trường tiêu dùng Trung Quốc đang tạo ra một hình thức khớp nối mới mà vị chuyên gia ngân hàng đầu tư nêu trên đã rất hứng thú.
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
Ông Milton Ezrati là một biên tập viên cộng tác với The National Interest, một chi nhánh của Trung tâm Nghiên cứu Vốn Con người tại Đại học Buffalo (SUNY), và là nhà kinh tế trưởng của Vested, công ty truyền thông có trụ sở tại New York. Cuốn sách mới nhất của ông là “Thirty Tomorrows: The Next Three Decades of Globalization, Demographics, and How We Will Live” (“Ba Mươi Ngày Mai: Ba Thập Kỷ Tiếp Theo của Toàn Cầu Hóa, Nhân Khẩu Học, và Cách Chúng Ta Sẽ Sống.”)
Lưu Đức biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times
Xem thêm: