Cổ điển hay Lãng mạn?
Chúng ta đang sống trong thời đại của âm nhạc “cổ điển” hay “lãng mạn”? Câu hỏi này có vẻ đã được đơn giản hóa so với sự phức tạp của thế giới âm nhạc ngày nay. Nhưng lịch sử của hội họa, văn chương và âm nhạc lâu nay vẫn được hiểu theo hai thước đo căn bản: trí tuệ với trái tim, lý trí với cảm xúc, Apollonian với Dionysian.
Âm nhạc lãng mạn, ví dụ như những bản nhạc của Tchaikovsky, thường được hiểu là những bản nhạc có giai điệu cảm xúc và có sự thay đổi thất thường trong nhịp độ và âm lượng. Còn về âm nhạc cổ điển, như những bản nhạc của Mozart, thì âm nhạc tương đối đồng đều, cân bằng và dễ đoán.
Trên thực tế, những luồng gió thẩm mỹ thổi dọc chiều dài lịch sử âm nhạc đã hình thành nên sự phức tạp của âm nhạc. Tuy nhiên, các nhà lịch sử học cho rằng phân chia âm nhạc đơn giản dựa trên hai yếu tố là lý trí và cảm xúc cũng hữu ích trong việc thấu hiểu những trào lưu chính của âm nhạc xuyên suốt các thời đại.
Sự dao động giữa Lãng mạn và Cổ điển trong lịch sử âm nhạc
Đầu tiên, hãy để tôi dẫn bạn tham quan những chặng đường cơ bản trong lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Nó tương tự như thế này: Mỗi một thời đại lịch sử truyền thống của âm nhạc đều bắt đầu với sự đơn giản và cân xứng tương đối “cổ điển”, và sau đó dần dần phát triển thành một thứ “quái vật lãng mạn” đầy cảm xúc và bốc đồng, cho tới khi nó được sự đơn giản kiểm soát lại một lần nữa để bắt đầu bước vào một kỷ nguyên khôi phục tính cổ điển tiếp theo.
Lấy một ví dụ, âm nhạc trong thời kỳ Thịnh Phục Hưng (cuối thế kỷ 16) đã phát triển mức độ cảm xúc phức tạp đáng kinh ngạc khi xuất hiện nhiều giọng hát cùng một lúc (polyphony – phức điệu), hoặc đôi khi là bao gồm những câu hát hoàn toàn khác nhau bằng các ngôn ngữ khác nhau! Sau đó vào khoảng năm 1600, các nhà soạn nhạc thời kỳ đầu của trường phái Baroque, như Claudio Monteverdi (1567 – 1643), đã giải quyết trạng thái rối rắm của âm nhạc bằng cách quay trở về hình thức “monody” (độc xướng), một thuật ngữ được mượn từ thơ ca cổ điển Hy Lạp thể hiện một người đơn tấu hơn là hát trong hợp xướng.
Tuy nhiên, theo thời gian, trường phái Baroque cũng không trụ vững và trở nên phức tạp khi phân chia thành nhiều nhánh hoặc mở rộng ra. Chúng ta nhận thấy điều này ở những tác phẩm tấu pháp đối âm của Bach và trong những bản hợp xướng hoành tráng và ấn tượng, những bản nhạc organ nhiều màu sắc và tiết mục hòa tấu với nhạc cụ bằng đồng.
Một phong trào cải cách mới đã xuất hiện vào kỷ nguyên tiếp theo, được gọi là thời kỳ Cổ điển, với sự xuất hiện của hai nhà soạn nhạc tiêu biểu Mozart và Haydn. Phong trào này bắt đầu bằng sự đơn giản hóa triệt để các bản aria opera trong thời kỳ Baroque, mà trước đó vốn là một công cụ phô diễn cho các tiết mục hát ngẫu hứng phức tạp. Một tác phẩm mang tính bước ngoặt trong thời kỳ này là vở opera theo phong cách Hy Lạp cổ điển “Orfeo ed Euridice” (1762) của Christoph Willibald Gluck (1714–1787). Nó toàn toàn không cho phép bất kỳ sự biến tấu ngẫu hứng nào và phải tuân thủ nghiêm ngặt các nốt nhạc trong bản nhạc. Những tác phẩm này có giai điệu tương đối đơn giản, do đó biến tình trạng hỗn độn trong phong cách lãng mạn trở về với trật tự cổ điển.
Cú xoay chuyển tiếp theo lại biến cổ điển trở về với lãng mạn; thời kỳ Cổ điển được thay thế bằng thời kỳ Lãng mạn của Gustav Mahler và Richard Strauss, với những bản nhạc thể hiện cảm xúc thái quá và hòa âm phức tạp. Sau đó vào những năm 1920, lại có một sự điều chỉnh chiều hướng tư duy trong âm nhạc. Nó được thực hiện bởi Arnold Schoenberg (1874 – 1951) cùng “kỹ thuật 12 tông giọng” (twelve-tone method) cực kỳ lý trí của ông. Trong khi đó, thể hiện cảm xúc một cách hiện thực vốn là điều cấm kỵ trong nhiều thập kỷ.
Phong trào hiện thân của chủ nghĩa cổ điển này sau đó đã phát triển thành chủ nghĩa tân lãng mạn ngày nay. Chủ nghĩa này không khác gì một chiếc tàu lượn siêu tốc cảm xúc trong bức tranh chắp vá thời hậu hiện đại, nó pha trộn tất cả các loại phong cách cùng lúc, như tác phẩm của William Bolcom và Michael Daugherty.
Tuy nhiên, quá trình tuần hoàn trong một “hệ thống khép kín” của lịch sử âm nhạc thính phòng đã bị phá vỡ bởi sự bùng nổ của trào lưu âm nhạc đại chúng, nhạc quốc tế, nhạc điện tử và phong cách lai tạp. Những thể loại âm nhạc này nằm rải rác xung quanh chúng ta trong một hệ thống cởi mở. Đối với các học giả ưa chuộng sự trật tự, nó giống như một mớ hỗn độn khủng khiếp. Thế nhưng, cảm xúc và lý trí của con người vẫn còn hiện hữu trong âm nhạc, và chúng cần được sắp xếp hợp lý theo một cách nào đó.
Nền văn hoá của chúng ta có trở nên lãng mạn hơn không?
Khuôn khổ bài viết này không cho phép tôi thảo luận về chủ đề: những thay đổi trong âm nhạc và các trào lưu tương tự cũng được phản ánh trong hội họa, văn chương và văn hóa. Vì vậy, chúng ta hãy nhìn vào văn hóa để thấu hiểu hơn nền âm nhạc ngày nay.
Theo quan sát của tôi trong những năm gần đây, ít nhất là dưới góc nhìn của một giáo sư đại học, tình cảm và “cảm giác” đã gia tăng mạnh mẽ so với lý trí. Năm ngoái, có một học trò viết thư cho tôi hỏi rằng, “Tại sao thầy lại chấm cho em điểm B trong khóa học? Em cảm thấy như mình phải đạt được điểm A.” Tôi trả lời, “Chao ôi, thầy không thể chấm điểm theo cảm giác của em. Em có điểm trung bình 87.”
Thời kỳ Lãng mạn rõ ràng đã quay trở lại trên truyền hình và những bộ phim nổi tiếng, mà kim chỉ nam đạo đức của chúng thường là những cảm xúc. Trong một số trường hợp, những bộ phim tâm lý tình cảm thậm chí đã phóng đại đến mức khiến người xem bất an dữ dội, giống như khi cảm xúc bỗng dưng bột phát một cách mất lý trí trên đường phố. Một số người dường như không hiểu tại sao họ lại hành động như vậy hoặc thậm chí tại sao họ lại cảm thấy như vậy.
Ngay cả những bản nhạc đắm say lòng người của Wagner và Tchaikovsky cũng không xúc cảm đến thế. Do nhu cầu thể hiện cảm xúc nội tâm mạnh mẽ ngày nay, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy rằng âm nhạc lãng mạn thế kỷ 19, vốn bị cho là thái quá về mặt cảm xúc so với các bản nhạc cổ điển cùng thời, thực sự được sáng tác một cách lý trí. Chúng không thuần túy chỉ chứa đựng cảm xúc, dù đôi khi chúng có vẻ như vậy, mà chúng chính xác là một kiểu âm nhạc cổ điển dễ biến hóa. Mặc dù nghiêng nhiều về thể hiện tình cảm, các bản nhạc vẫn là sự kết hợp của cả cảm xúc và lý trí. Âm nhạc của Tchaikovsky chịu ảnh hưởng lớn của nhạc Mozart và mang dáng dấp cổ điển rất nhiều!
Có lẽ thứ âm nhạc duy nhất tương ứng với loại cảm xúc mà xã hội đang trải qua hiện nay là âm nhạc chỉ có sự hỗn loạn. Giống như thứ cảm xúc phóng túng không lý trí có thể biến thành cơn thịnh nộ và phá hủy một thành phố, thì âm nhạc nếu chỉ đơn thuần chứa đựng tình cảm sẽ trở thành thứ âm thanh ồn ào mang sức mạnh hủy diệt.
Do đó, “cổ điển” không thể tồn tại nếu không có “lãng mạn” và ngược lại, chúng như thể là âm và dương. Chúng ta thấy rằng để nghệ thuật sống mãi, cũng như văn hoá nói chung, chúng phải duy trì được trạng thái như xưa – một sự cân bằng giữa lý trí và cảm xúc.
Tác giả: Nhà soạn nhạc người Hoa Kỳ Michael Kurek là tác giả của cuốn sách được xuất bản gần đây “Thanh âm của vẻ đẹp: Một nhà soạn nhạc của đời sống tinh thần” (The Sound of Beauty: A Composer on Music in the Spiritual Life). Ông cũng là nhạc sĩ của album đứng đầu bảng xếp hạng nhạc cổ điển Billboard “Biển xanh biết” (The Sea Knows). Ông nhận được vô số giải thưởng về sáng tác, trong đó có giải thưởng danh giá về âm nhạc của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ, ông đã làm việc cho Ủy ban Đề cử của Viện Hàn lâm Thu âm cho giải Grammy cổ điển. Ông là giáo sư danh dự về sáng tác của Đại học Vanderbilt. Để biết thêm thông tin về âm nhạc của ông, bạn có thể truy cập MichaelKurek.com.
Michael Kurek
Anh Đặng biên dịch
Xem thêm: