Chuyên gia về Trung Quốc: Trung Cộng ‘bên ngoài uy mãnh, bên trong yếu nhược’
Chuyên gia nổi tiếng về Trung Quốc, Roger Garside, hôm thứ Hai (24/05) trong một cuộc thảo luận về tiềm năng thay đổi chế độ và nền dân chủ ở Trung Quốc do Viện Hoover tại Đại học Stanford tổ chức, đã tuyên bố rằng chế độ Cộng sản Trung Quốc là “ngoài cương, trong nhu” (bề ngoài uy mãnh, bên trong yếu nhược).
Ông Garside, một cựu quan chức ngoại giao người Anh từng làm việc tại Trung Quốc, đồng thời là tác giả của hai cuốn sách: “China Coup: The Great Leap to Freedom” (“Cuộc Đảo Chính của Trung Quốc: Đại Nhảy Vọt Hướng Tới Tự Do” và “Coming Alive: China After Mao” (“Hồi Sinh: Trung Quốc Sau Thời Mao Trạch Đông). Ông gọi Đảng Cộng sản Trung Quốc (Trung Cộng) là “hèn nhát,” và tuyên bố, “Chế độ cai trị Trung Quốc ngày nay là toàn trị, chứ không phải là độc tài chuyên chế.”
Ông nói rằng mặc dù Trung Cộng đang cố gắng xây dựng một hình ảnh mạnh mẽ, nhưng chế độ này tồn tại một số điểm yếu cơ bản mà duy chỉ chế độ toàn trị mới có.
“Quan điểm phổ biến là chế độ này mạnh mẽ và ổn định và sẽ tiếp tục cai trị Trung Quốc trong thời gian dài. Nhưng tôi cho rằng chế độ này bề ngoài thì uy mãnh còn bên trong lại yếu nhược. Chế độ tưởng chừng là toàn quyền này lại thực sự bất lực trong việc giải quyết một loạt các vấn đề sâu xa đã dày vò Trung Quốc trong nhiều năm, thậm chí trong nhiều thập kỷ. Tại sao vậy? Bởi vì những vấn đề này thực chất là sản phẩm của chế độ toàn trị.”
Một trong số các vấn đề mà ông Garside đề cập đến là nền kinh tế Trung Quốc cùng những khoản nợ chồng chất như núi của nó. Tăng trưởng kinh tế từ lâu đã được coi là điều thiết yếu để duy trì sự ổn định cơ bản của xã hội Trung Quốc dưới sự cai trị của Trung Cộng, đây là đất nước mà công dân không được hưởng các quyền cơ bản của con người, bao gồm cả quyền tự do ngôn luận, báo chí, và tôn giáo.
“Thứ nhất, nền kinh tế này, vốn đã ghi nhận sự phát triển đáng kinh ngạc, nay lại bị bủa vây bởi những vấn đề nghiêm trọng. Năm 2008, việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, giúp giải phóng tiềm năng của người dân Trung Quốc đã bị Đảng Cộng sản chặn đứng lại. Các ngành kinh tế quan trọng mang tính chiến lược, bao gồm cả ngân hàng, ngành dịch vụ thiết yếu và ngành vận tải được giữ lại trong khu vực nhà nước. Tại sao? Đó không phải vì lý do kinh tế, mà vì lý do chính trị. Đảng này lo sợ rằng việc cho phép các công ty tư nhân đảm nhận những ngành trọng điểm trong nền kinh tế sẽ phá vỡ sự độc quyền chính trị của họ,” ông Garside khẳng định.
“Để bù đắp cho tình trạng hiệu suất kém do việc ngừng chuyển đổi này gây ra, nhà nước đã bơm một lượng lớn tín dụng vào nền kinh tế để duy trì tốc độ tăng trưởng cao một cách giả tạo, vì họ lo ngại rằng sự tăng trưởng thấp đi sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp và vỡ nợ của doanh nghiệp. Hậu quả là nợ nần như núi. Không quốc gia nào mắc nợ nần chồng chất cao như Trung Quốc từng giảm bớt được nợ nần mà không bị suy thoái hoặc bị lạm phát kéo dài cả.”
Ông Orville Schell, Giám đốc Arthur Ross của Trung tâm Hiệp hội Châu Á về bang giao Hoa Kỳ-Trung Quốc, nói rằng nền kinh tế có thể sẽ là yếu tố quyết định trung tâm cho một sự thay đổi chế độ trong tương lai ở Trung Quốc.
“Tôi muốn nói rằng, tôi nghĩ nếu sắp có sự thay đổi ở Trung Quốc, thì điều đó phải xuất phát từ bên trong Trung Quốc. Và nếu tôi phải dự đoán điều này sẽ xảy ra như thế nào, thì nó có thể sẽ liên quan đến nền kinh tế,” ông Schell nói. “Tất cả các nền kinh tế đều có tính chu kỳ và khi Trung Quốc đụng phải một chu kỳ ác tính, đó là thời điểm họ sẽ bị khảo nghiệm, giống như chúng ta đã được khảo nghiệm vào năm 2008, giống như khảo nghiệm chúng ta đã trải qua mới gần đây. Và chúng ta sẽ cùng xem điều đó diễn ra như thế nào.”
Ngoài việc viện dẫn các chính sách của Trung Cộng nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế đã khiến cho cho tài nguyên và môi trường của Trung Quốc bị suy thoái nghiêm trọng, cũng như gây ra một cuộc “khủng hoảng đạo đức” bắt nguồn từ tham nhũng trong nội bộ Trung Cộng, ông Garside còn đề cập đến một số yếu tố khiến Trung Cộng sợ hãi-trong đó có sự thật, khát khao dân chủ, và tôn giáo ở Trung Quốc-như là bằng chứng về sự yếu kém về cơ cấu. Ông cũng khẳng định rằng người dân Trung Quốc đang phải sống “trong tình trạng nô lệ chính trị.”
“Chế độ được cho là hùng mạnh này thật hèn nhát. Họ sợ sự thật. Đảng [Cộng sản Trung Quốc] này luôn che giấu sự thật về những sự kiện có tầm quan trọng to lớn trong lịch sử 70 năm cầm quyền của mình. Họ sợ dân chủ. Họ đã đàn áp tự do ở Hồng Kông vì lo sợ rằng sự ưa chuộng dân chủ và pháp quyền của chỉ 7.5 triệu người Hồng Kông sẽ lây lan sang 1.4 tỷ cư dân của đại lục, những người đang bị chế độ này giam cầm trong tình trạng nô lệ chính trị,” ông Garside tuyên bố.
“Họ sợ hãi tôn giáo. Kể từ năm 1979, họ hoảng sợ trước sự phát triển bùng nổ của hết thảy các tôn giáo lớn ở Trung Quốc. Hoảng sợ trước việc rất nhiều người đàn ông và phụ nữ tôn kính Thần Phật, coi Thần Phật như đấng quyền lực tối cao trong vũ trụ này, chứ không phải là Đảng [Cộng sản Trung Quốc]. Thế nên, họ đang đàn áp tôn giáo ở một mức độ chưa từng thấy kể từ sau cái chết của Mao. Chiến lược diệt chủng văn hóa của họ ở Tân Cương và Tây Tạng là những biểu hiện cực đoan nhất của chính sách này.”
Đằng Bưu (Teng Biao), một luật sư học thuật và là nhà hoạt động nhân quyền, trước đây từng là giảng viên tại Đại học Khoa học Chính trị và Luật Trung Quốc, nói rằng Trung Cộng sợ hãi điều mà ông gọi là “nợ máu,” bắt nguồn những bất công mà người dân Trung Quốc phải gánh chịu kể từ khi Trung Cộng lên nắm quyền ở Trung Quốc vào năm 1949.
“Có một điều mà nhiều người đã bỏ qua là ‘món nợ máu’ của Đảng Cộng sản này. Kể từ năm 1949, Trung Cộng đã phạm những tội ác phản nhân tính vô cùng tàn ác, liệt kê ra ở đây là: từ việc giết hại địa chủ, Cách mạng Văn hóa, Thảm sát Thiên An Môn, ông Đằng nói. “Các nhà lãnh đạo tối cao thực sự sợ sự trả thù của người dân và họ không tin rằng người dân Trung Quốc sẽ tha thứ cho ‘món nợ máu’ của họ.”
Sự sợ hãi của Trung Cộng cùng sự chối bỏ của họ đối với nhân quyền và tự do cho người dân Trung Quốc đã dẫn đến hậu quả là sự mất lòng tin giữa Trung Cộng và người dân Trung Quốc, ông Garside nói tiếp.
“Hết thảy những yếu tố này kết hợp lại đã gây ra sự mất lòng tin giữa người dân và chế độ cai trị họ. Kể từ năm 2011, ngân sách dành cho an ninh trong nước đã vượt quá cả ngân sách dành cho quân đội. Chế độ này lo sợ sự bất đồng chính kiến trong nước hơn cả lo sợ những kẻ thù ngoại bang,” ông Garside nói.
“Nhưng sự mất lòng tin không chỉ là vấn đề nội bộ. Nó cũng hủy hoại các mối liên kết quốc tế của Trung Quốc. Ở nước ngoài, cũng như trong nước, sự ngờ vực đã tăng lên đáng kể do việc che đậy nguồn gốc của COVID-19. Đây là một phần lý do Hoa Kỳ cùng các đồng minh của họ đang ngày càng xa lánh [Trung Quốc]. Các quốc gia từng có liên kết đối tác hòa hảo với Trung Quốc nay đã trở nên thù địch. Lòng tin sẽ không được khôi phục cho đến khi nào có một sự thay đổi về chế độ chính trị ở Trung Quốc.”
Do Adam Molon thực hiện
Hạo Văn biên dịch
Tham khảo bản gốc từ The Epoch Times.
Xem thêm: