Chuyên gia giải thích lý do đường trong thực phẩm chế biến và đồ uống có thể liên quan với sa sút trí tuệ
Nguyên nhân chính xác của bệnh Alzheimer vẫn còn đang được khám phá, nhưng ngày càng có nhiều nghiên cứu cho thấy một chất làm ngọt phổ biến có thể đóng một vai trò nhất định.
Sirô ngô hàm lượng đường fructose cao (HFCS) là chất làm ngọt thường được dùng trong các thực phẩm chế biến và đồ uống. Chất này được làm từ bột ngô và thường dùng để thay thế cho sucrose (đường ăn) bởi vì giá thành rẻ và bảo quản được lâu hơn.
Một nghiên cứu được đăng vào tháng 06/2022 trên Public Library of Science phát hiện rằng những con chuột tiêu thụ HFCS từ khi còn nhỏ đã gia tăng những thay đổi bất lợi ở các vùng não có vai trò trong trí nhớ, cảm xúc, và chức năng hệ thần kinh. Việc ăn HFCS trong thời gian dài dẫn đến giảm chuyển hóa kéo dài trong những vùng não này, gây thoái hóa và suy giảm nhận thức điển hình của bệnh Alzheimer.
Một bài tổng quan vào tháng 03/2023 về những nghiên cứu được đăng trên Tập san The American Journal of Clinical Nutrition cũng cho rằng fructose có thể làm giảm chuyển hóa ở các vùng não liên quan đến các chức năng nhận thức cao hơn.
Các nhà nghiên cứu tham gia vào bài tổng quan đưa ra giả thuyết rằng sự gia tăng lượng fructose trong não có thể làm tăng nguy cơ bị bệnh Alzheimer.
Tuy nhiên, họ cũng nhấn mạnh rằng việc tiêu thụ glucose (một thành phần của sucrose) và các thực phẩm có chỉ số đường huyết cao đóng vai trò lớn nhất trong làm tăng lượng fructose ở não. Một nghiên cứu của Yale năm 2017 đã phát hiện rằng fructose có thể được tạo ra từ glucose ở não.
Tác giả chính của bài tổng quan hiện tại, Tiến sĩ Richard Johnson, đã trích dẫn một nghiên cứu trước đó cho thấy các con chuột trong phòng thí nghiệm được cho ăn đường fructose trong thời gian đủ lâu sẽ hình thành protein tau và amyloid beta ở não. Những protein này có liên quan đến bệnh Alzheimer.
Ông Johnson, giáo sư tại Trường Y thuộc Đại học Colorado chuyên về bệnh thận và cao huyết áp, cho biết: “Chúng tôi lập luận rằng bệnh Alzheimer là do cách ăn uống.”
Ông Johnson nghi ngờ rằng một phản ứng ông gọi là “công tắc sinh tồn” giúp con người sống sót trong thời kỳ khan hiếm thức ăn, đã bị mắc kẹt ở vị trí “bật” trong thời điểm có nhiều thức ăn. Điều này dẫn đến việc ăn quá nhiều thực phẩm giàu chất béo, đường, và muối, dẫn đến sự sản xuất fructose quá mức.
Ông đề nghị nên tiến hành các thử nghiệm dinh dưỡng và dược phẩm để tìm hiểu liệu việc giảm tiếp xúc với fructose hoặc ức chế chuyển hóa fructose có ích gì trong hỗ trợ phòng ngừa, kiểm soát hoặc điều trị bệnh Alzheimer không. [Hiện tại], vẫn còn thiếu nghiên cứu và hiểu biết sâu sắc về vai trò của quá trình chuyển hóa fructose trong não.
Fructose làm thay đổi quá trình chuyển hóa của não
Sự tiêu thụ fructose đã gia tăng đáng kể do việc sử dụng rộng rãi HFCS trong đồ uống và thực phẩm chế biến.
Chất làm ngọt này cũng được chứng minh là gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, đặc biệt là bệnh tiểu đường.
Cô Claire Sexton, tiến sĩ tâm thần học tại Đại học Oxford và là giám đốc cấp cao của Hiệp hội Alzheimer về các chương trình khoa học và tiếp cận cộng đồng, nói với The Epoch Times rằng: “Nghiên cứu cho thấy bệnh tiểu đường Type 2 có thể là một yếu tố nguy cơ của bệnh Alzheimer và một số loại sa sút trí tuệ khác như sa sút trí tuệ thể mạch máu não.”
Cô giải thích rằng điều này có thể là vì các yếu tố làm tăng nguy cơ tiểu đường Type 2 cũng làm gia tăng nguy cơ bị sa sút trí tuệ. Đây có thể là do những ảnh hưởng lâu dài của việc suy giảm chuyển hóa đường trong não, dẫn đến đường huyết thấp, mà não cần đường huyết để duy trì năng lượng.
Trong một nghiên cứu mù đôi tại Đại học California–Davis, các nhà nghiên cứu đã quan sát sự tăng mỡ gan và giảm độ nhạy với insulin trong hai nhóm, hoặc uống ba loại đồ uống có chứa chất làm ngọt HFCS, hoặc đồ uống chứa đường mỗi ngày chỉ trong hai tuần.
Điều này không có nghĩa rằng ăn trái cây là không tốt đối với sức khỏe của chúng ta. Fructose chỉ gây hại với lượng dư thừa, và trái cây chứa lượng đường rất ít khi so sánh với nhiều loại thực phẩm chế biến.
Trái cây cũng chứa nhiều chất dinh dưỡng và chất xơ giúp chúng ta duy trì cân bằng dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe.
Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta tiêu thụ các loại đường tự do như fructose, glucose, và sucrose vốn được phân tách ra từ các nguồn tự nhiên. Các loại đường được thêm vào thức ăn và đồ uống trong quy trình chế biến thương mại cũng nằm trong đó.
Bằng chứng cho thấy các nguy cơ sức khỏe đến từ đường có liên quan đến tiêu thụ nhiều đường tự do trong bữa ăn, không phải là từ các loại đường tự nhiên trong các loại thực phẩm như trái cây và sữa.
Bệnh Alzheimer có phải là một loại bệnh tiểu đường Type 3?
Các nhà khoa học báo cáo về mối tương quan chặt chẽ giữa bệnh tiểu đường Type 2 và bệnh Alzheimer, cho thấy bệnh Alzheimer có tần suất cao gấp đôi ở bệnh nhân tiểu đường. Một giả thuyết phổ biến cho rằng bệnh Alzheimer có thể là một rối loạn chuyển hóa, tương tự như bệnh tiểu đường Type 2, trong đó cơ thể không thể sử dụng insulin đúng cách.
Các nghiên cứu cho thấy insulin đóng vai trò quan trọng trong chức năng của não, và sự kháng insulin trong não góp phần làm suy giảm nhận thức.
Một nghiên cứu được đăng trên tạp chí Frontiers in Neuroscience vào năm 2021 cho thấy đường huyết cao do tiểu đường có thể trực tiếp dẫn đến tăng đường huyết ở não. Điều này có thể khiến hàng rào máu não thích nghi bằng cách cho phép ít glucose vào não hơn, trong khi não cần glucose để hoạt động. Các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng đường huyết cao ở não cung cấp một lời giải thích hợp lý cho mối liên kết được biết đến rộng rãi giữa bệnh Alzheimer và tiểu đường.
Ngày càng có nhiều người quan tâm đến ý kiến cho rằng bệnh Alzheimer có thể là một loại tiểu đường type 3. Tuy nhiên, giả thuyết này đã gây ra tranh cãi về việc liệu đó có phải là cách bệnh phát triển hay không.
Cô Sexton cho biết cô không nghĩ bệnh Alzheimer là một loại bệnh tiểu đường, và những đặc điểm giống nhau không giải thích được sự phức tạp của hai loại bệnh này.
“Mặc dù nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa sự kháng insulin và nguy cơ bị bệnh Alzheimer, nhưng căn bệnh này vẫn có thể tiến triển mà không có sự hiện diện của lượng glucose dư thừa trong não,” cô Sexton cho biết.
Khi được hỏi liệu việc điều trị tình trạng kháng insulin có thể làm giảm nguy cơ bị bệnh Alzheimer hay không, cô cho biết ý tưởng này hiện đang được khám phá trong các thử nghiệm lâm sàng.
“Trên thực tế, vào năm ngoái tại Hội nghị Quốc tế của Hiệp hội Alzheimer, Liệu Pháp T3D đã báo cáo về các kết quả tích cực tạm thời từ thử nghiệm giai đoạn hai của T3D-959, nhằm tìm cách khắc phục tình trạng kháng insulin ở não và phục hồi sức khỏe chuyển hóa của não.”
Vân Hi biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times