CHUYÊN ĐỀ PROTEIN GAI: Tổn thương & Điều trị (P.8)
Sự tồn tại của protein gai trong cơ thể có liên quan chặt chẽ đến hội chứng COVID kéo dài và hậu chích vaccine. Tác động của protein gai từ vaccine mRNA COVID-19 đối với sức khỏe con người đang là chủ đề ngày càng được quan tâm gần đây. Trân trọng giới thiệu với quý độc giả Chuyên đề 17 phần về Protein gai: Những tổn thương và những cập nhật về điều trị.
Phần 3: TIN ĐỘC QUYỀN: Protein gai có thể tạo ra huyết khối bất thường
Phần 4: TIN ĐỘC QUYỀN: Các dấu hiệu cho thấy bạn có huyết khối protein gai và bạn cần phải làm gì
Phần 6: Tự thực bào chữa lành những tổn thương do protein gai
Phần 7: Cách sử dụng Resveratrol cho các triệu chứng liên quan đến protein gai COVID
Phần 8: LDN điều trị các bệnh và các tổn thương do protein gai
Claudia Ann Christian, một nữ diễn viên người Mỹ rất thành công, đã mắc chứng nghiện rượu hơn một thập niên. Cô cảm thấy như có thứ gì khác đang kiểm soát mình, như thể cô không ngồi ở “ghế lái.”
Cô đã dành cả gia tài để cố gắng tìm cách chữa trị trong vô vọng. Sau đó, cô đã phát hiện ra Naltrexone và có thể giúp cô vượt qua chứng nghiện rượu của mình sau khi sử dụng một liều duy nhất.
Năm 1984, FDA đã chấp thuận 50 miligam Naltrexone làm phương pháp điều trị chứng nghiện heroin.
Sau đó, người ta phát hiện ra rằng naltrexone liều thấp (LDN) cũng có thể được sử dụng để điều trị các bệnh khác.
Do đại dịch, các hội chứng liên quan đến vaccine COVID và hội chứng COVID kéo dài đã trở thành mối quan tâm sức khỏe lớn trong xã hội.
Ngoài Ivermectin, nghiên cứu đã phát hiện thấy naltrexone liều thấp có thể là một phương pháp điều trị tốt cho các tổn thương do vaccine và hội chứng COVID kéo dài.
Vì sao lại vậy? Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn toàn bộ lịch sử của naltrexone liều thấp.
Naltrexone liều thấp (LDN) có thể điều trị ung thư
Các nhà khoa học đã phát hiện thấy ngoài ứng dụng ban đầu là điều trị nghiện ma túy, naltrexone với liều lượng nhỏ có thể được sử dụng để điều trị bốn bệnh phổ biến khác.
-
Điều trị khối u
Năm 1983, Tiến sĩ Ian Zagon và Tiến sĩ Patricia McLaughlin của Trung tâm Y tế Penn State Hershey là đồng tác giả của một bài báo trên tạp chí Science, đã lần đầu tiên mô tả tác dụng ức chế mạnh của LDN đối với sự phát triển của u nguyên bào thần kinh ở chuột.
Các thí nghiệm được tiến hành bằng cách tiêm naltrexone dưới da với liều 0.1, 1 hoặc 10mg/kg mỗi ngày vào chuột được cấy u nguyên bào thần kinh.
Nhóm dùng naltrexone liều thấp 0.1 mg/kg (vòng tròn) cho thấy thời gian sống tăng 36% so với nhóm đối chứng được tiêm nước cất (x). Nhóm dùng naltrexone liều cao 10 mg/kg trọng lượng cơ thể (hình vuông) cho thời gian sống giảm 19%.
Ngoài ra, thời gian khởi phát u chậm hơn 98% ở nhóm dùng naltrexone liều thấp.
Dữ liệu từ thí nghiệm này cho thấy LDN có tác dụng ức chế ung thư. Tác dụng chính của LDN là thông qua kích hoạt hệ thống thụ thể opioid nội sinh và thúc đẩy giải phóng endorphin.
Chức năng quan trọng nhất của endorphin là tăng khả năng miễn dịch, nhờ đó tăng số lượng tế bào miễn dịch và cải thiện chức năng miễn dịch tổng thể, khiến tế bào ung thư bị hệ thống miễn dịch nội sinh tiêu diệt.
-
Điều trị HIV/AIDS
Tiến sĩ Bernard Bihari, tốt nghiệp Harvard và là bác sĩ ở New York, đã bắt đầu tìm cách giúp khôi phục hệ thống miễn dịch của những người mắc bệnh AIDS sau khi chứng kiến đại dịch năm 1985 ở Hoa Kỳ.
Năm 1986, thử nghiệm lâm sàng của ông tại Trung tâm Y tế Downstate cho thấy LDN bảo vệ bệnh nhân AIDS bằng cách sửa chữa hệ thống miễn dịch bị tổn thương của họ.
Khoảng 31 phần trăm bệnh nhân trong nhóm chứng, những người được dùng giả dược, đã bị các bệnh truyền nhiễm trong quá trình thử nghiệm.
Ngược lại, không ai trong số 22 bệnh nhân trong nhóm dùng LDN bị bệnh truyền nhiễm.
-
Điều trị đa xơ cứng
Năm 2008, LDN lần đầu tiên được sử dụng một cách tự nhiên (không có sự can thiệp từ bên ngoài) bởi bệnh nhân đa xơ cứng (MS) trên toàn thế giới, với kết quả đầy hứa hẹn trước khi các tổ chức y tế tiến hành những thử nghiệm lâm sàng nghiêm ngặt.
Người ta thấy rằng LDN không chỉ có thể ngăn ngừa MS tái bùng phát mà còn cản bước tiến triển của bệnh.
Một loạt các thử nghiệm trên các bệnh nhân MS với nhiều thể, bao gồm thể tái phát-hồi phục, thể tiến triển thứ phát, thể tiến triển nguyên phát, đã cho thấy LDN được dung nạp tốt, đồng thời cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống và sức khỏe tâm thần của bệnh nhân.
Dữ liệu cho thấy LDN là một liệu pháp sinh học an toàn, không độc hại và rẻ tiền đối với bệnh đa xơ cứng
Ví dụ, một nghiên cứu chéo, mù đôi, kiểm soát giả dược, đơn trung tâm đã đánh giá hiệu quả của tám tuần sử dụng LDN 4.5 miligam đối với chất lượng cuộc sống bệnh nhân MS thông qua tự đánh giá.
Tám mươi người đã ghi danh và 60 người đã hoàn thành thử nghiệm.
Điều trị bằng LDN có liên quan đến sự cải thiện đáng kể các triệu chứng sau:
- Cải thiện 3.3 điểm về điểm tinh thần trong 36 Khảo sát Sức khỏe Tổng quát-Mẫu ngắn và cải thiện 6 điểm trong Bản kiểm kê Sức khỏe Tâm thần.
- Cải thiện 1.6 điểm trên Thang đo mức độ đau và cải thiện 2.4 điểm trên Bảng câu hỏi về mức độ thiếu hụt nhận thức.
-
Điều trị hội chứng ruột kích thích
Một nghiên cứu của Israel liên quan đến 42 bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích (IBS) được tiến hành lần đầu tiên vào năm 2006.
Đó là một nghiên cứu nhãn mở kéo dài trong bốn tuần và các bệnh nhân được dùng 0.5 miligam LDN mỗi ngày.
Phép đánh giá chủ quan về những ngày không đau và giảm triệu chứng cho kết quả xảy ra ở hơn 75% bệnh nhân. Thuốc cũng được dung nạp tốt.
LDN có thể cải thiện các triệu chứng COVID kéo dài
Một nghiên cứu được thực hiện với 52 bệnh nhân COVID-19 có độ tuổi trung bình là 43.5. Bốn mươi bệnh nhân là nữ. Nhân viên y tế chiếm 34.8%.
Thời gian trung bình từ khi chẩn đoán COVID-19 đến khi đăng ký là 333 ngày. Ba mươi tám người đăng ký (73.1 phần trăm) bắt đầu sử dụng LDN.
Sau hai tháng theo dõi, 36 người tham gia (69.2 phần trăm) đã hoàn thành cuộc khảo sát.
Sáu trong số bảy thông số được đo đã cải thiện, bao gồm phục hồi đáng kể về các hoạt động hàng ngày, năng lượng, cơn đau, sự chú ý và rối loạn giấc ngủ vốn do hội chứng COVID kéo dài gây ra.
Về mặt tinh thần cũng có một chút cải thiện
Tỷ lệ xuất hiện của các triệu chứng cụ thể, bao gồm tâm trạng chán nản, thay đổi tính cách, sương mù não và đau khớp, cũng được cải thiện đáng kể.
LDN hữu hiệu với các triệu chứng đau cơ xơ hóa
Một nghiên cứu cho thấy 30% những người bị hội chứng COVID kéo dài bị đau cơ xơ hóa.
Đau cơ xơ hóa là tình trạng của tế bào thần kinh đệm tăng hoạt động và viêm trong hệ thống thần kinh trung ương. Sau khi được kích hoạt, các tế bào này tạo ra các yếu tố gây viêm dẫn đến các triệu chứng như quá mẫn cảm với cơn đau và mệt mỏi.
LDN được báo cáo là làm giảm các triệu chứng đau cơ xơ hóa.
Trong một nghiên cứu thử nghiệm thiết kế chéo, mù đơn kéo dài tám tuần, về thông tin cơ sở (hai tuần), giả dược (hai tuần), thuốc (tám tuần) và thanh thải (hai tuần); các triệu chứng đau cơ xơ hóa đã giảm hơn 30% khi dùng 4,5 miligam LDN mỗi đêm, so với khi sử dụng giả dược.
Ngoài ra, thuốc cải thiện ngưỡng đau cơ học và đau nhiệt.
Các tác dụng phụ (bao gồm mất ngủ và những giấc mơ sống động) rất hiếm và được mô tả là nhẹ.
Nhiều cytokine gây viêm, bao gồm cả interleukin, đã giảm đáng kể ở những bệnh nhân bị đau cơ xơ hóa.
LDN điều trị hội chứng mệt mỏi mãn tính
Hội chứng mệt mỏi mãn tính cũng là một vấn đề thường gặp trong hội chứng COVID kéo dài.
Vào tháng 01/2020, Tạp chí Y học Anh đã công bố ba báo cáo về tác dụng điều trị tích cực của LDN đối với tình trạng mệt mỏi mãn tính liên quan đến virus Epstein-Barr (EBV), từ thay đổi cuộc sống đến giảm một số triệu chứng. Phạm vi liều điều trị là 4 đến 12 miligam.
LDN hoạt động như thế nào?
Naltrexone ban đầu được sử dụng để điều trị các triệu chứng cai nghiện của chất dạng thuốc phiện và nghiện rượu với liều lượng từ 50-200 miligam/ngày, vì ở liều này sẽ chặn hoàn toàn cả chất dạng thuốc phiện nội sinh (endorphin, “hormone hạnh phúc” tự nhiên) và chất dạng thuốc phiện ngoại sinh (chẳng hạn như heroin).
Liều thấp từ 0.5 đến 4.5 miligam/ngày, bằng 1/10 đến 1/100 liều bình thường.
Mỗi loại thuốc đều có hai cấu trúc được gọi là đồng phân phản chiếu lẫn nhau (levorotatory và dextrorotatory), giống như tay trái và tay phải của một người. Thông thường, chỉ có một chất đồng phân mang lại hiệu quả điều trị.
Naltrexone độc đáo ở chỗ cả hai chất đồng phân đều có tác dụng điều trị khác nhau.
LDN kích thích sản xuất Endorphin
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng LDN tác động lên các thụ thể opioid, làm tăng nồng độ opioid nội sinh và kích thích sản xuất endorphin.
Một nghiên cứu năm 2008 cho thấy endorphin tiếp tục tăng thậm chí một tháng sau khi ngừng dùng liều dưới 5.0 miligam LDN.
90% endorphin thực sự được tiết ra từ 2 giờ sáng đến 4 giờ sáng, vì vậy chúng ta nên ngủ sớm và tránh thức cả đêm.
LDN điều chỉnh trục thụ thể OGF
Các thụ thể opioid tồn tại trong cơ thể con người ở dưới dạng nhiều phân nhóm khác nhau: μ, κ, δ, σ, v.v.
Một trong những phân nhóm này còn được gọi là thụ thể Yếu tố Tăng trưởng Opioid (OGF) và trục OGF/thụ thể OGF có liên quan đến điều chỉnh sự phát triển và tăng sinh của khối u.
Khi OGF liên kết với thụ thể OGF, quá trình tăng sinh tế bào sẽ bị thay đổi.
Sự phát triển của khối u bị ức chế khi trục OGF/thụ thể OGF được điều chỉnh tăng. Naltrexone liều thấp điều chỉnh tăng trục OGF/thụ thể OGF và do đó ức chế sự phát triển của khối u và điều trị khối u.
Ngoài ra, nó còn có thể điều trị các bệnh tự miễn dịch. Chúng bao gồm bệnh đa xơ cứng, bệnh Crohn, bệnh tiểu đường và ung thư, cũng như rối loạn tâm thần, tất cả đều liên quan đến rối loạn chức năng của trục OGF/thụ thể OGF.
Do đó, naltrexone có tiềm năng sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh.
LDN làm giảm các Cytokine gây viêm, tăng các yếu tố chống viêm
Một hệ thống miễn dịch cân bằng phụ thuộc vào khả năng cân bằng các yếu tố gây viêm và chống viêm của cơ thể.
Thông qua nhiều phương tiện, LDN có thể làm giảm các cytokine gây viêm, do đó làm giảm viêm.
Một loại protein được gọi là (TLR) là một phần của hệ thống miễn dịch. Nó cung cấp tuyến phòng thủ đầu tiên chống lại sự xâm nhập của vi sinh vật và có khả năng nhận biết và kích hoạt mầm bệnh cũng như các phân tử tín hiệu nội sinh.
LDN có thể làm giảm tín hiệu của thụ thể-4 giống-toll và sau đó gây ra tình trạng viêm thần kinh, cũng như có khả năng tái cân bằng các phản ứng miễn dịch của cytokine Th1 và Th2 bị rối loạn điều hòa khi đang trong tình trạng COVID.
Các cytokine Th1 có xu hướng đáp ứng với vi khuẩn virus. Interferon γ là cytokine Th1 chính. Các cytokine Th2 bao gồm interleukin 4, 5 và 13, có liên quan đến việc kích hoạt các phản ứng dị ứng và tăng bạch cầu ái toan.
Do đó, LDN có thể hữu ích trong việc giảm các triệu chứng của hội chứng COVID kéo dài.
LDN và tổn thương do protein gai
Ít nhất 2/3 dân số thế giới đã chích vaccine COVID-19, trong đó protein gai là thành phần chính.
Đã có ít nhất 1,200 nghiên cứu khoa học về các tổn thương ở cấp độ tế bào, mô và cơ quan do protein gai gây ra.
Các cơ chế bệnh lý quan trọng nhất như sau:
Protein gai gây ra phản ứng viêm và kích hoạt các bạch cầu đơn nhân trong hầu hết các cơ quan của cơ thể.
Đáng chú ý nhất, nó liên quan đến não (sương mù não, mất trí nhớ, rối loạn tâm lý, bất thường tâm thần), tim và hệ thống nội tiết. Những thứ này có thể đe dọa tính mạng.
Protein gai có thể làm giảm tế bào diệt tự nhiên NK và ức chế hoạt động của chúng, đồng thời kích hoạt lại virus tiềm ẩn, tiếp tục ức chế hệ thống miễn dịch, do đó tạo ra một vòng luẩn quẩn.
Các vấn đề khác bao gồm tổn hại do tổn thương vi mạch, rối loạn chức năng ty lạp thể, bệnh tự miễn dịch, v.v.
Về mặt lý thuyết, LDN có thể giảm nhẹ các bệnh viêm hệ thống và viêm thần kinh bằng cách ức chế những yếu tố gây viêm khác nhau và giảm phản ứng của cơ thể đối với tình trạng viêm.
LDN ức chế sự kích hoạt microglia trong hệ thống thần kinh và làm giảm tác dụng độc hại của việc sản xuất các loại oxy phản ứng, các chất kích thích thần kinh tiềm tàng khác và hóa chất độc thần kinh. Do đó, LDN có thể bảo vệ não và các tế bào thần kinh.
Dựa trên kinh nghiệm về liều lượng trước đây, về mặt lý thuyết, bệnh nhân có thể bắt đầu với một liều lượng nhỏ, sau đó tăng dần liều – bắt đầu với liều lượng từ 0.5 đến 1.5 miligam mỗi ngày cho đến liều tối đa là 4.5 miligam.
Tiềm năng trong nhiều lần điều trị của LDN đem đến hy vọng
Sau khi các cơ chế tự điều chỉnh tự nhiên của cơ thể bị phá vỡ bởi các loại thuốc, virus và độc tố bên ngoài, các rối loạn có thể xảy ra, chẳng hạn như nghiện, COVID-19 hoặc tổn thương do vaccine COVID.
Ngoài việc buộc phải ngăn chặn các kích thích bên ngoài (ví dụ như thuốc gây nghiện), phương pháp điều trị cơ bản nhất là khiến các cơ chế tự nhiên của cơ thể trở lại bình thường.
Ý tưởng điều trị y tế chủ yếu là ngăn chặn các triệu chứng, đó là một hành động phản ứng lại nhưng không phải là một biện pháp chủ động. Cách tiếp cận này đánh đồng một bệnh với một mục tiêu và gắn với một loại thuốc.
Việc naltrexone liều thấp, một loại thuốc ban đầu được sử dụng để điều trị nghiện ma túy, thực sự có thể điều trị các bệnh mãn tính khác cho thấy cơ thể con người là một hệ thống phức tạp, đa chiều mà cho đến nay vẫn chưa được hiểu rõ.
Người ta biết rất ít về sự liên kết của não bộ, hệ thống miễn dịch và các cơ quan khác nhau của cơ thể.
Tuy nhiên, nhiều liệu pháp truyền thống hoặc liệu pháp tự nhiên có thể chữa lành toàn bộ cơ thể ở cấp độ vi mô, sâu hơn.
Những nét tinh vi của cơ thể con người vẫn cần được khám phá với một tinh thần cởi mở để có sự hiểu biết rõ hơn. Chỉ khi chúng ta có thể làm điều này một cách khiêm tốn, chúng ta mới có thể tìm ra một cách toàn diện để đạt được sức khỏe tối ưu.
Đại Hải biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times