Các triệu chứng kinh niên và khó giải thích có thể là do bệnh tự miễn
Tình trạng tự miễn dịch có thể mất nhiều năm để chẩn đoán, thường sau khi đã xảy ra tổn thương trầm trọng.
Trong khi bệnh tim và ung thư chiếm ưu thế trên các phương tiện truyền thông, có thêm hàng triệu người đang phải khổ sở chịu đựng các triệu chứng “bí ẩn” và đôi khi có thể gây suy nhược. Những triệu chứng này có thể lấy đi sức lực, động lực, khả năng hoạt động, sinh kế, các mối quan hệ và thậm chí cả niềm hy vọng của người bệnh.
Đa số các bệnh nhân phải mất nhiều năm đi thăm khám trước khi tìm ra căn bệnh tự miễn đang gây ra các triệu chứng.
Trước đó, họ được thông báo là “hoàn toàn khỏe mạnh,” và tự suy diễn các triệu chứng “không tồn tại,” hoặc được kê toa thuốc chống trầm cảm. Cho dù [các triệu chứng] khiến họ không thể ra khỏi giường, đau khắp người, trí óc hầu như không hoạt động, mất động lực làm bất kỳ điều gì, không thể giảm cân nhưng bị rụng tóc, hoặc vô số vấn đề sức khỏe không thể giải thích khác.
Khi những bệnh nhân này tìm đến y học chức năng, các xét nghiệm cho thấy nhiều người có phản ứng tự miễn dịch giai đoạn đầu. Đây là một tình trạng hệ miễn dịch mất cân bằng, tấn công nhầm và phá hủy chính mô cơ thể, thường diễn tiến chậm trong nhiều năm. Bệnh tự miễn có thể tấn công bất kỳ mô, enzyme, hormone, hoặc tế bào nào trong cơ thể, tùy thuộc vào khuynh hướng di truyền và các yếu tố gây viêm của mỗi người.
Những ví dụ phổ biến của các bệnh tự miễn bao gồm viêm tuyến giáp Hashimoto, bệnh đa xơ cứng, viêm khớp dạng thấp, bệnh vẩy nến, bệnh bạch biến, bệnh celiac, bệnh basedow, tiểu đường type 1, lupus và một số bệnh ruột viêm.
Bình thường hệ miễn dịch bảo vệ chúng ta khỏi vi khuẩn, virus, và các mầm bệnh khác. Tuy nhiên, sự mất cân bằng miễn dịch và viêm kinh niên cũng có thể tấn công các mô, cơ quan, và các tuyến trong cơ thể. Hiện tượng này được gọi là “tự miễn dịch” hay “miễn dịch tự tấn công.” Trong giai đoạn đầu của hiện tượng tự miễn, hệ miễn dịch tạo ra các kháng thể gắn nhầm với mô cơ thể thay vì gắn vào các tác nhân ngoại lai.
Bằng cách gắn vào mô tế bào, các kháng thể này báo hiệu cho hệ miễn dịch điều động các tế bào phá hủy –- tế bào diệt tự nhiên để phá hủy mô cũng như tiêu diệt mầm bệnh.
Hàng triệu người phải chịu đựng nhiều năm hoặc nhiều thập niên mà không được điều trị vì các công ty bảo hiểm không chấp nhận việc kiểm tra tình trạng tự miễn cho đến khi bệnh nhân có các dấu hiệu rõ ràng về sự phá hủy mô hoặc cơ quan. Lúc này, người bệnh có thể được chỉ định một số phương pháp điều trị ức chế miễn dịch.
Tuy nhiên, các triệu chứng ngày càng nặng hơn và sự suy giảm chức năng có thể xảy ra trong nhiều năm trước khi chẩn đoán. Trước đó, các bác sĩ sẽ tiếp tục nói với bệnh nhân rằng họ hoàn toàn khỏe mạnh.
Điều này là rất không may, vì việc xét nghiệm kháng thể sớm sẽ giúp bệnh nhân có thể điều chỉnh cách ăn uống và lối sống để làm giảm các triệu chứng và ngăn chặn bệnh tiến triển.
Lấy ví dụ, hãy nói về một người bắt đầu bị phản ứng tự miễn dịch tấn công các khớp. Đó có thể là bất kỳ một mô nào, như da, tuyến giáp, bộ não, nhưng trong trường hợp này, hãy đơn giản hóa và nói về phản ứng tự miễn ở khớp.
Ở giai đoạn đầu, họ có thể bị đau khớp kinh niên với các cấp độ đau tái phát khác nhau. Đầu tiên, khớp nhìn vẫn bình thường; không bị dính khớp, biến dạng, hoặc các nốt viêm khớp, chỉ có tình trạng đau và viêm. Bác sĩ thăm khám dường như sẽ không có kết luận gì ngoài việc cho bệnh nhân dùng thuốc không kê toa để giảm đau và viêm.
Trong nhiều năm, phản ứng tự miễn tiến triển sẽ dẫn đến chứng dính khớp, biến dạng khớp, và các nốt viêm khớp. Lúc này, cuối cùng họ cũng nhận được chẩn đoán về bệnh khớp tự miễn, chẳng hạn như viêm khớp dạng thấp.
Nếu bác sĩ chỉ đơn giản kiểm tra các kháng thể khớp trong giai đoạn đầu, thì có thể đã xác định được tình trạng bệnh, cũng như làm chậm hoặc ức chế quá trình diễn tiến của bệnh thông qua việc áp dụng dinh dưỡng và lối sống phù hợp.
Các kháng thể tự miễn tăng lên trong nhiều năm trước khi tình trạng tự miễn phá hủy mô. Thật không may, cả mô hình y học thông thường và thay thế đều không thường xuyên kiểm tra các dấu hiệu sớm của tình trạng tự miễn, cũng như đưa ra các đề xuất về cách ăn uống, dinh dưỡng, và lối sống để điều trị bệnh.
Thật không may, hàng triệu bệnh nhân phải chịu đựng trong cả phần lớn cuộc đời vì không được phát hiện sớm. Đặc biệt là khi nhiều nghiên cứu đã cho thấy các tự kháng thể xuất hiện trong giai đoạn sớm của tình trạng tự miễn và có thể được dùng làm công cụ chẩn đoán và tiên lượng trong các cơ sở lâm sàng.
Tuy nhiên, các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thông thường và thay thế đều không cập nhật nghiên cứu. Đa số các trường y khoa vẫn chỉ dạy cách xác định bệnh tự miễn giai đoạn cuối, chứ không phải ở giai đoạn đầu, cũng như cách tác động đến quá trình tiến triển bệnh thông qua ăn uống, dinh dưỡng, dược phẩm, hoặc lối sống.
Một cuộc khảo sát được tiến hành bởi Hiệp hội Các bệnh Liên quan đến Tự miễn ở Hoa Kỳ, đã phát hiện thấy rằng trung bình bệnh nhân bị bệnh tự miễn nặng (giai đoạn cuối và dấu hiệu lâm sàng rõ ràng) đã đến gặp hơn bốn bác sĩ trong khoảng thời gian bốn năm trước khi nhận được chẩn đoán đúng. Tôi biết có những bệnh nhân đã đến gặp 20 bác sĩ khác nhau để tìm kiếm sự trợ giúp.
Đa số bệnh nhân không biết rằng các triệu chứng của họ là do ở giai đoạn đầu của bệnh tự miễn. Họ đã đến gặp rất nhiều bác sĩ điều trị, cả thông thường và thay thế, trở thành một người sành sỏi hàng trăm loại thực phẩm bổ sung, thử vô số cách ăn kiêng cực đoan, lên mạng để tìm kiếm, bày tỏ và đồng cảm với nhiều người có cùng cảnh ngộ.
Mỗi loại chất bổ sung và liệu pháp đều không mang lại kết quả như mong muốn. Đôi khi, họ sẽ gặp phải thứ giống như phương thuốc thần kỳ. Nhưng phần lớn, các triệu chứng tự miễn không được chẩn đoán sẽ biến thành một cuộc tìm kiếm và thử nghiệm vô tận.
Đây là một lĩnh vực y học bị hiểu lầm và bỏ quên mặc dù rất nhiều người gặp phải. Đa số bệnh nhân buộc phải trở thành chuyên gia cho chứng tự miễn của chính mình để hiểu và tìm cách kiểm soát bệnh. Tin tốt là, chúng ta có nhiều nghiên cứu và các nguồn [tài liệu] có sẵn, mặc dù cần mất một chút công sức hơn so với việc đến gặp bác sĩ và nhận toa thuốc.
Kiểm soát tình trạng tự miễn đòi hỏi cách tiếp cận phù hợp với từng người về việc thay đổi cách ăn uống để chống viêm, loại bỏ các tác nhân gây viêm (khác nhau đối với mỗi người), vận động hàng ngày nhưng không quá sức, ngủ đủ giấc mỗi đêm, và tránh những thứ độc hại, kể cả các tình huống và những người không tốt.
Vân Hi biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times