Các công ty Hoa Kỳ là ‘Con tin’ cho Trung Quốc
Các công ty ngoại quốc kinh doanh ở Trung Quốc nên nhận thức được cái giá của việc giao dịch với một chế độ độc tài kiểm soát mọi thứ trong xã hội và có thể dễ dàng ép buộc bất kỳ công ty nào theo ý mình.
Người đứng đầu các tập đoàn Hoa Kỳ không dám chỉ trích Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ngay cả trong môi trường riêng tư. Họ biết Anh Cả luôn theo dõi họ.
Lời xin lỗi nhanh chóng của ông chủ JPMorgan, Jamie Dimon về một câu đùa mà ông đã nói gần đây về chính phủ cộng sản của đất nước này là một ví dụ điển hình về việc các nhà lãnh đạo doanh nghiệp lo sợ sự trừng phạt từ Bắc Kinh như thế nào.
Ông Clyde Prestowitz, tác giả và nhà chiến lược về Á Châu và toàn cầu hóa, giải thích cái giá thực sự của việc kinh doanh ở Trung Quốc trong cuốn sách mới nhất của ông “Thế giới đảo lộn: Mỹ, Trung Quốc và cuộc Đấu giành quyền Lãnh đạo Toàn cầu.” Ông từng là cố vấn tổng thống và là trưởng phái đoàn thương mại Mỹ đầu tiên đến Trung Quốc vào năm 1982.
Ông Prestowitz nói trong cuốn sách của mình, các công ty Hoa Kỳ có quan hệ mật thiết với Trung Quốc phải đối mặt với đủ loại rủi ro, từ đánh cắp tài sản trí tuệ đến gián điệp mạng thương mại. Nhưng rủi ro lớn nhất, cơ bản nhất là “mất quyền tự do ngôn luận.”
Ông Dimon không phải là trường hợp cá biệt vì có rất nhiều ví dụ về các CEO và tổng thống của thế giới tự do đưa ra lời xin lỗi hoặc quay lưng lại khi họ làm chính phủ Trung Quốc tức giận.
Ví dụ, trong các cuộc biểu tình ở Hồng Kông vào năm 2019, Apple đã gỡ xuống từ cửa hàng ứng dụng của mình một ứng dụng bản đồ được những người biểu tình ủng hộ dân chủ sử dụng rộng rãi, hiển thị vị trí cảnh sát tuần tra và triển khai hơi cay, với lý do an ninh. Hành động này được đưa ra sau khi truyền thông nhà nước Trung Quốc gây áp lực kêu gọi gỡ bỏ ứng dụng. Google cũng gây ra tranh cãi khi xóa một trò chơi nhập vai một người biểu tình Hong Kong khỏi cửa hàng ứng dụng của mình.
Đây hoàn toàn không phải là sự cố tự kiểm duyệt duy nhất của các công ty công nghệ Hoa Kỳ. Theo báo cáo của New York Times, ví dụ, Apple đã xóa gần 55,000 ứng dụng đang hoạt động khỏi cửa hàng ứng dụng của mình ở Trung Quốc kể từ năm 2017. Trong đó bao gồm các ứng dụng được tạo bởi các nhóm thiểu số bị chế độ này áp bức, bao gồm cả người Uyghur và người Tây Tạng.
Trong những năm qua, danh sách các công ty đã khuất phục trước yêu cầu kiểm duyệt của Bắc Kinh đã dài ra. Gap, Disney, Delta Airlines, Medtronic, Marriott, NBA và nhiều hãng khác đều đã cúi đầu trước chế độ Trung Quốc về các vấn đề từ Đài Loan, Duy Ngô Nhĩ đến Hồng Kông.
Tuy nhiên, hành động như vậy của các công ty Hoa Kỳ đã vấp phải sự chỉ trích từ các nhà lập pháp ở cả hai đảng, những người cáo buộc các công ty hy sinh các giá trị của Hoa Kỳ để thu hút lợi nhuận ở nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Đối với Giám đốc điều hành của Apple Tim Cook và các giám đốc điều hành công ty Hoa Kỳ khác đang điều hướng thị trường Trung Quốc, họ thực sự trở thành “con tin” cho những ý tưởng bất chợt của chế độ Trung Quốc.
Ông Prestowitz viết trong cuốn sách của mình, “Họ có thể được coi là người đứng đầu các công ty Mỹ, nhưng họ sợ Bắc Kinh hơn là sợ Hoa Thịnh Đốn.”
Ông nói thêm, vì không có pháp quyền ở Trung Quốc, họ trở nên “bị giam cầm”. Ở Hoa Thịnh Đốn, họ có các luật sư và nhà vận động hành lang để họ có quyền gây ảnh hưởng hoặc kiện chính phủ Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ở Bắc Kinh, họ không thể kiện chính phủ Trung Quốc vì họ biết rằng họ sẽ thua — các tòa án ở Trung Quốc do ĐCSTQ kiểm soát—và sẽ phải đối mặt với sự trả đũa từ chế độ này vì sự cố gắng công bằng.
Bắc Kinh nhận thức được đòn bẩy này và do đó có thể tự do sử dụng các công ty như một công cụ. Như tôi đã viết trong một chuyên mục trước, Đại sứ quán Trung Quốc tại Hoa Thịnh Đốn đang gây áp lực buộc các công ty và tập đoàn thương mại Hoa Kỳ có lợi ích kinh doanh ở Trung Quốc vận động hành lang chống lại một dự luật toàn diện về Trung Quốc nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Hoa Kỳ và buộc Bắc Kinh phải chịu trách nhiệm về những vi phạm nhân quyền của họ.
Theo ông Prestowitz, các công ty đang chịu áp lực có thể là những đại công ty như Walmart, Apple, General Electric, và FedEx cũng như các tổ chức như Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-Trung Quốc.
Không có gì đáng ngạc nhiên. Như độc giả của The Epoch Times sẽ biết, Trung Quốc có ảnh hưởng đáng kể đối với Hoa Kỳ. Theo OpenSecrets, Bắc Kinh đã chi hơn 67 triệu USD cho các nhà vận động hành lang vào năm ngoái, tăng gấp sáu lần kể từ năm 2016.
Và đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, vì nó chỉ bao gồm các hoạt động gây ảnh hưởng công khai cần được tiết lộ theo Đạo luật Đăng ký Đại lý ngoại quốc (FARA).
Luật FARA, được thông qua vào năm 1938, yêu cầu một người đại diện cho lợi ích ngoại quốc đăng ký làm đại lý ngoại quốc. Tuy nhiên, luật không giải quyết được các hoạt động gây ảnh hưởng chính trị ít công khai hơn được thực hiện thông qua các tổ chức ủy quyền, bao gồm các tập đoàn, hiệp hội thương mại, và các tổ chức tư vấn. Nhiều người theo chủ nghĩa cứng rắn đối với Trung Quốc ở Hoa Thịnh Đốn đang thúc giục Quốc hội đóng lỗ hổng ảnh hưởng của ngoại quốc này.
Ông Prestowitz nói với tôi: “Đó thực sự là điều cần phải giải quyết.
Ông nói, nếu những người đứng đầu các tập đoàn có hoạt động kinh doanh đáng kể ở Trung Quốc, thì “họ không được phép quyên góp chính trị ở Hoa Kỳ.”
“Khi họ điều trần trước Quốc hội, họ nên bị buộc phải tuyên bố rằng họ đang làm chứng với tư cách là những nhà lãnh đạo của các doanh nghiệp Trung Quốc. Họ phải được thực hiện để nói với công chúng và Quốc hội rằng họ trên thực tế, đang chịu áp lực và ảnh hưởng của ĐCSTQ.”
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
Bà Emel Akan là phóng viên đưa tin về chính sách kinh tế của Tòa Bạch Ốc tại Hoa Thịnh Đốn. Trước đây, bà làm việc trong lĩnh vực tài chính với tư cách là chuyên viên ngân hàng đầu tư tại JPMorgan và là cố vấn tại PwC. Bà tốt nghiệp thạc sĩ quản trị kinh doanh tại Đại học Georgetown.
Bình Hòa biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times
Xem thêm: