Các chất chống oxy hóa có thể làm giảm nguy cơ bức xạ từ xét nghiệm hình ảnh y học
Bổ sung các chất chống oxy hóa trước khi làm xét nghiệm hình ảnh y học có thể giúp giảm tổn thương DNA và giảm nguy cơ bị ung thư.
Việc ứng dụng các xét nghiệm hình ảnh y học phát ra bức xạ ion hóa – bức xạ năng lượng cao khiến các electron tách khỏi nguyên tử hoặc phân tử – đã tăng vọt trong những năm gần đây. Điều này khiến nhiều bác sĩ và bệnh nhân đặt câu hỏi rằng liệu chúng ta có đang quá lạm dụng một số xét nghiệm và có cách nào để hạn chế tổn thương do tiếp xúc với bức xạ hay không.
Một số nghiên cứu nhỏ nhưng hứa hẹn cho thấy các chất chống oxy hóa có thể giúp giảm tổn thương DNA do bức xạ từ các xét nghiệm hình ảnh y học.
“Bức xạ” là một từ gợi lên nỗi sợ hãi, nhưng điều quan trọng cần nhận thức được là xung quanh chúng ta luôn diễn ra quá trình bức xạ tự nhiên, bao gồm bức xạ vũ trụ từ mặt trời, các vì sao, cũng như khí radon phát ra khi đất và đá phân hủy.
Những nguồn tự nhiên này được gọi là “bức xạ nền,” và mức độ bức xạ có thể thay đổi từ nơi này sang nơi khác. Tuy nhiên theo ước tính của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, trung bình người Mỹ tiếp xúc với khoảng 3 millisievert bức xạ từ các nguồn tự nhiên mỗi năm.
Một số mức phơi nhiễm với bức xạ ion hóa chỉ là một điều bình thường và không thể tránh khỏi trong cuộc sống. Trên thực tế, chúng ta thậm chí còn phụ thuộc vào một số loại bức xạ để cơ thể khỏe mạnh, chẳng hạn như việc dùng các bức xạ tia cực tím từ ánh sáng mặt trời để tạo ra vitamin D cho da.
Tuy nhiên, điều thú vị là việc con người tiếp xúc với bức xạ đã tăng lên đáng kể trong những thập niên gần đây, do các nguồn bức xạ nhân tạo.
Harvard Health giải thích: “Mức độ tiếp xúc với bức xạ ion hóa từ thiên nhiên hoặc các nguồn bức xạ nền không thay đổi kể từ những năm 1980, nhưng tổng mức tiếp xúc với bức xạ bình quân đầu người đã tăng gần gấp đôi. Các chuyên gia tin rằng nguyên nhân chính là do việc gia tăng sử dụng các xét nghiệm hình ảnh. Tỷ lệ tổng phơi nhiễm bức xạ đến từ các nguồn y tế đã tăng lên từ 15% vào đầu những năm 1980 đến 50% vào thời điểm hiện tại.
“Hơn 80 triệu lần quét CT đang được thực hiện ở Hoa Kỳ mỗi năm, so với chỉ 3 triệu vào năm 1980.”
Không thể phủ nhận rằng các xét nghiệm hình ảnh y học đã tạo nên bước tiến trong chẩn đoán và điều trị nhiều loại bệnh, giúp giảm đáng kể nhu cầu phẫu thuật thăm dò. Các xét nghiệm này là những công cụ y khoa vô cùng hữu ích. Nhưng việc tăng số lượng các xét nghiệm có liều bức xạ cao, chẳng hạn như CT scan và chụp ảnh hạt nhân, đã khiến nhiều bệnh nhân và bác sĩ băn khoăn về nguy cơ tích tụ do tiếp xúc lặp lại với bức xạ liều thấp và khả năng phát triển thành ung thư sau này.
Một số xét nghiệm hình ảnh y học đem lại rủi ro nhiều hơn một số loại khác. Theo RadiologyInfo.org, bệnh nhân chụp CT scan vùng ngực tiếp xúc với lượng bức xạ nhiều hơn ít nhất gấp 150 lần so với liều bức xạ từ chụp X-quang ngực. Và nếu dùng thuốc đối quang, liều bức xạ sẽ tăng lên gấp đôi.
Bức xạ ion hóa tạo ra các gốc tự do, là các nguyên tử hoặc phân tử có số electron lớp ngoài cùng lẻ nên không ổn định và cần bổ sung electron. Các gốc tự do quét sạch các electron từ các tế bào xung quanh, từ đó làm tổn thương các tế bào này. Các chất chống oxy có tác dụng ổn định các gốc tự do bằng cách cho một electron, do đó làm dừng hoạt động càn quét electron của các gốc tự do. Đây là một quá trình bình thường luôn xảy ra trong bối cảnh các hoạt động sống thường nhật của chúng ta.
Mặc dù cơ thể có thể sửa chữa hầu hết các tổn thương bằng cơ chế sửa chữa tế bào phức tạp, nhưng đối với một số ít tổn thương thì không. Những tế bào không được sửa chữa này có thể góp phần gây ung thư trong tương lai. Các vấn đề sẽ xảy ra khi số lượng các gốc tự do vượt quá khả năng sửa chữa của cơ thể.
Đó là nguyên nhân vì sao cần hạn chế tiếp xúc với bức xạ ion hóa, cũng như các yếu tố môi trường khác làm tăng số lượng các gốc tự do, chẳng hạn như ô nhiễm, khói thuốc lá, và hóa chất độc hại.
Điều đặc biệt quan trọng đối với trẻ em và thanh thiếu niên là tránh bức xạ không cần thiết bởi vì những lứa tuổi này còn đang phát triển và vì vậy dễ bị ảnh hưởng bởi bức xạ hơn. Nhóm tuổi này cũng còn nhiều năm để sống phía trước, trong khi các tế bào bị tổn thương có thể trở thành ung thư.
Một nghiên cứu lớn ở Úc đã phân tích các hồ sơ y tế của gần 11 triệu trẻ em và thanh thiếu niên đã chụp CT scan từ năm 1985 đến năm 2005. Kết quả cho thấy rằng nguy cơ ung thư tăng 24% sau một lần chụp và tăng thêm 16% sau mỗi lần chụp bổ sung. Mặc dù các liều bức xạ của hầu hết các lần chụp CT scan hiện tại có thể thấp hơn so với những năm 1980 và 1990, những con số này vẫn còn đáng lo ngại.
Thuận theo sự gia tăng tiếp xúc với bức xạ ion hóa, người ta ngày càng quan tâm đến những cách để giảm tổn thương DNA.
Tiến sĩ Kieran Murphy, một nhà thần kinh học can thiệp, và các đồng nghiệp tại Bệnh viện Tây Toronto (Toronto Western Hospital) đã nghiên cứu các tác động của việc uống một loại cocktail chống oxy hóa có chứa vitamin C, acid lipoic, B-carotene, và N-acetylcysteine trước khi tiếp xúc với bức xạ ion hóa trên 5 bệnh nhân, so với 5 bệnh nhân ở nhóm đối chứng.
Họ phát hiện rằng các chất chống oxy hóa có tác dụng bảo vệ đáng kể đối với DNA.
Nghiên cứu được đăng trên tập san Journal of Vascular and Interventional Radiology vào tháng 03/2017, đã kết luận rằng “các chất chống oxy hóa có thể là một phương tiện hiệu quả để bảo vệ bệnh nhân và chuyên gia chăm sóc sức khỏe khỏi tổn thương DNA do bức xạ trong quá trình làm xét nghiệm hình ảnh.”
Ông Murphy đã đi đầu trong lĩnh vực này, và công ty của ông, hãng dược phẩm Cora (Cora Therapeutics), hiện đang bán một sản phẩm chống oxy hóa được thiết kế đặc biệt để giúp giảm tổn thương do bức xạ.
Các nghiên cứu khác đã phát hiện các tác dụng bảo vệ tương tự khi dùng vitamin C, vitamin nhóm E, và coenzyme Q10, mặc dù vẫn còn nhiều nghi vấn về chất chống oxy hóa hay tổ hợp các chất chống oxy hóa nào có hiệu quả nhất, cũng như thời gian và liều lượng để đạt hiệu quả tối ưu.
Điều quan trọng cần lưu ý là người ta đã quan sát thấy các chất chống oxy có hiệu quả bảo vệ và giúp giảm những ảnh hưởng có hại của các gốc tự do đối với DNA trước khi thực hiện các xét nghiệm hình ảnh – mà không phải là sau khi làm xét nghiệm.
Vân Hi biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times