Báo cáo: Kế hoạch năng lượng của Tổng thống Biden là một ‘ảo tưởng đầy nguy hiểm’
Trong bài diễn văn Thông điệp Liên bang hồi tuần trước, Tổng thống (TT) Joe Biden đã tuyên bố rằng ông sẽ “hoàn thành công việc” của cái mà ông gọi là “quá trình chuyển đổi đáng kinh ngạc” từ nhiên liệu hóa thạch sang phong năng và quang năng.
“Đạo luật Giảm Lạm phát là khoản đầu tư quan trọng nhất từng có để giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu,” TT Biden nói, đề cập đến khoản chi tiêu mới của chính phủ trị giá 370 tỷ USD cho năng lượng tái tạo, vốn sẽ giúp “giảm hóa đơn tiện ích, tạo việc làm cho người Mỹ, và dẫn đầu thế giới hướng tới một tương lai năng lượng sạch.”
Trình bày tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos hồi tháng Một, đặc phái viên về khí hậu của Hoa Kỳ John Kerry đã lặp lại quan điểm đó, tuyên bố rằng giải pháp cho một tình trạng khí hậu đang thay đổi là “tiền, tiền, tiền, tiền, và tiền.” Không chịu thua kém, cựu Phó Tổng thống Al Gore, đã tuyên bố tại hội nghị thượng đỉnh về khí hậu Cop 27 của Liên Hiệp Quốc hồi tháng 11/2022 rằng nhiên liệu hóa thạch là “một nền văn hóa của sự diệt vong” và yêu cầu 4.5 ngàn tỷ USD mỗi năm để thay thế ngành dầu khí bằng phong năng, quang năng và pin.
Các nhà hoạt động cho rằng mối đe dọa này đối với nhân loại nghiêm trọng đến mức chi phí không phải là một yếu tố. Nhưng đối với những người có thể tò mò về chi phí, như ông Mark Mills, một thành viên cao cấp tại Viện Manhattan kiêm giáo sư tại Khoa Kỹ thuật và Khoa học Ứng dụng của Đại học Northwestern, đã cố gắng tính toán những chi phí đó.
Nhiệm vụ thay thế nhiên liệu hóa thạch là vô cùng to lớn: hiện tại, dầu mỏ chiếm 97% tổng số ngành vận tải toàn cầu; khí đốt tự nhiên chiếm 40% tổng tiêu thụ năng lượng công nghiệp và 25% điện năng toàn cầu; và than đá cung cấp 40% điện năng thế giới và 70% sản lượng thép. Nhìn chung, 84% mức tiêu thụ năng lượng toàn cầu đến từ nhiên liệu hóa thạch.
Ông Mills nói với The Epoch Times rằng quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo đòi hỏi “đi từ một hệ thống chủ yếu là hydrocarbon lỏng và hydrocarbon khí sang một hệ thống chủ yếu là khoáng sản rắn, đá, và kim loại.” Bởi vì các loại khoáng sản rắn có mật độ năng lượng thấp hơn so với nhiên liệu hóa thạch, ông nói, “tùy thuộc vào máy móc, cần sử dụng khoáng sản nhiều hơn từ 1,000% đến 5,000% để tạo ra cùng một mức năng lượng.”
Trong báo cáo của mình có nhan đề “Ảo tưởng về ‘Chuyển đổi Năng lượng: Một Cuộc tái thiết Thực tế,’ ông Mills viết: “Mặc dù ngày càng có nhiều lời hoa mỹ, thế nhưng một ‘sự chuyển đổi năng lượng’ thoát khỏi sự phụ thuộc của xã hội vào hydrocarbon là không khả thi trong bất kỳ khoảng thời gian có ý nghĩa nào, và đó là một ảo tưởng đầy nguy hiểm khi đưa ra các chính sách dựa trên ý tưởng rằng một quá trình chuyển đổi như vậy là có thể xảy ra … những thực tế về vật lý, kỹ thuật, và kinh tế của các hệ thống năng lượng không phụ thuộc vào bất kỳ niềm tin nào về biến đổi khí hậu.”
“Nếu quý vị chế tạo máy móc, như tua-bin gió và xe hơi [điện] thay vì máy móc chạy bằng hydrocarbon thông thường, thì đó là một sự gia tăng lớn về số lượng kim loại và khoáng vật mà quý vị phải khai thác,” ông Mills giải thích. “Tất cả quá trình khai thác quặng mỏ đều được thực hiện bằng máy chạy bằng dầu, và tất cả các loại nhựa để làm cánh tuabin gió đều được tổng hợp bằng hydrocarbon. Tất cả bê tông và thép đều cần than luyện kim, khí đốt tự nhiên, và dầu mỏ. Vì vậy, quý vị không tránh được [nhiên liệu hóa thạch], mà chỉ là sử dụng ít hơn thôi, nhưng sau đó lại sử dụng nhiều khoáng vật hơn, và lại cần phải khai thác nhiều hơn nữa.”
Tiết kiệm năng lượng là một vấn đề đánh đổi. Trong trường hợp này, đó là một thương vụ năng lượng hydrocarbon do chính phủ ủy thác, trong đó Hoa Kỳ chủ yếu là tự cung cấp, cho một nền kinh tế dựa vào khoáng sản vốn phụ thuộc vào một chuỗi cung ứng quốc tế, với Trung Quốc là trung tâm của chuỗi cung ứng này.
Chi phí khai thác khoáng sản
Chuỗi cung ứng này bắt đầu với việc khai thác khoáng sản thô. Theo một báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), một tổ chức ủng hộ năng lượng tái tạo, “sự chuyển đổi từ hệ thống năng lượng sử dụng nhiều nhiên liệu sang sử dụng nhiều khoáng sản rắn” sẽ yêu cầu mức tăng sản lượng khoáng sản sau đây vào năm 2040: 4,200% đối với lithium, 2,500% đối với than chì, 1,900% đối với niken và 700% đối với đất hiếm.
Những khoáng chất này phải được đào lên, sàng lọc, vận chuyển, xử lý, tinh luyện, và sản xuất thành các bộ phận cho tua-bin gió, tấm pin quang năng và pin. Nhu cầu ngày càng tăng đối với các khoáng chất này để đáp ứng các mục tiêu của quá trình chuyển đổi sẽ chuyển một nửa sản lượng nhôm và đồng, và 80% sản lượng niken trên toàn cầu hiện tại sang các tấm pin quang năng và tua-bin gió.
Báo cáo của IEA, có nhan đề “Vai trò của các khoáng chất quan trọng trong quá trình chuyển đổi năng lượng sạch,” diễn đạt theo lối ngoại giao rằng: “Ngày nay, dữ liệu này cho thấy một sự bất tương xứng mập mờ giữa các tham vọng khí hậu được đẩy mạnh của thế giới và sự sẵn có của các khoáng chất quan trọng cần thiết để thực hiện các tham vọng đó.”
Ông Mills viết: “Việc đáp ứng những nhu cầu chưa từng có như vậy sẽ đòi hỏi phải khai thác thêm nhiều quặng mỏ hơn so với hiện tại và nhanh hơn nhiều so với bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử.” Hiện tại, hoạt động khai thác quặng mỏ toàn cầu ngày nay đã sử dụng khoảng 40% tổng năng lượng công nghiệp toàn cầu, chủ yếu được tạo ra từ nhiên liệu hóa thạch.
Khi nhu cầu ngày càng tăng đối với các khoáng sản ngày càng khan hiếm, thì giá cả chắc chắn cũng sẽ tăng theo và chúng ta đã nhận thấy những dấu hiệu của điều đó. Ví dụ, giá lithium đã tăng từ 100,000 nhân dân tệ/tấn vào năm 2018 lên hơn 500,000 nhân dân tệ/tấn vào năm 2022.
Một báo cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), cũng là một tổ chức ủng hộ năng lượng tái tạo, dự đoán rằng giá khoáng sản cho năng lượng tái tạo sẽ đạt mức cao nhất trong lịch sử “trong khoảng thời gian chưa từng có kéo dài trong khoảng một thập niên theo tình huống phát thải ròng bằng không của IEA. Điều này có nghĩa là giá thực tế của niken, coban, và lithium sẽ tăng vài trăm phần trăm so với mức năm 2020, trong khi giá đồng sẽ tăng hơn 60%.”
Chi phí khoáng sản tăng cao sẽ không chỉ làm tăng chi phí năng lượng tái tạo, mà còn làm đẩy giá cả tăng lên đối với tất cả các ngành sản xuất khác sử dụng các đầu vào bằng những khoáng sản này. Theo báo cáo của ông Mills, “toàn bộ thế kỷ 20 là một thời kỳ giá khoáng sản trung bình giảm chậm, một xu hướng có lợi bắt đầu đảo ngược chỉ một thập niên trước và [việc tăng giá] sẽ sẵn sàng tăng tốc nếu các kế hoạch chuyển đổi [năng lượng] đó được theo đuổi.”
Ông Robert Bryce, tác giả cuốn sách có nhan đề “A Question of Power: Electrical and the Wealth of Nations,” (tạm dịch: “Một vấn đề về năng lượng: Điện và Sự thịnh vượng của các quốc gia”) nói với The Epoch Times rằng: “Chúng tôi đã chứng kiến tình trạng thiếu hụt các bộ căn bản cho lưới điện, bao gồm cả dây máy biến áp.” Ông cho biết thêm: “Tôi không hiểu làm thế nào chúng ta có thể xây dựng công trình đồ sộ đó khi chúng ta lại thiếu những thành phần quan trọng này.”
Dự trữ năng lượng
Một trong những lợi ích của nhiên liệu hóa thạch là chúng có tính di động và dễ dàng lưu trữ. Điều này rất cần thiết khi sản xuất điện vì nhu cầu hay thay đổi tùy thuộc vào thời tiết, mùa, và thời gian trong ngày. Các tiện ích phải có khả năng đáp ứng nhu cầu cao điểm của người tiêu dùng bất cứ khi nào điều đó xảy ra.
Theo ông Mills, chi phí để lưu trữ nhiên liệu hóa thạch chưa đến 1 USD mỗi thùng mỗi tháng. Điều này đã cho phép Mỹ xây dựng một mạng lưới cung cấp điện bất cứ khi nào cần thiết với chi phí dưới 3% GDP. Mỹ thường có nhu cầu dự trữ từ một đến hai tháng cho từng loại nhiên liệu hóa thạch.
Ngược lại, phong năng và quang năng chỉ hoạt động khi thời tiết thích hợp và thường chỉ có hiệu quả về mặt chi phí ở những địa điểm đặc biệt nhiều nắng hoặc gió, đòi hỏi phải lắp đặt hàng ngàn dặm dây dẫn bằng đồng hoặc nhôm để kết nối với lưới điện. Tua-bin gió không thể hoạt động khi nhiệt độ giảm xuống dưới khoảng âm 22 độ F (âm 5.55 độ C). Nhiên liệu hóa thạch và năng lượng hạt nhân ngày càng được sử dụng như một giải pháp dự phòng, là một nguồn thứ cấp trong trường hợp phong năng và quang năng không hoạt động.
Một số người cho rằng có thể sử dụng pin để lưu trữ năng lượng tái tạo; tuy nhiên, việc sử dụng công nghệ pin lithium hiện tại sẽ tốn hơn 30 USD để lưu trữ năng lượng tương đương với giá một thùng dầu.
“Nói một cách thẳng thắn,” ông Mills nhận định, “ở mức giá ngày nay và có thể là trong tương lai, việc xây dựng đủ pin để lưu trữ điện trong 12 giờ cho Hoa Kỳ sẽ tiêu tốn khoảng 1.5 ngàn tỷ USD, và quy mô lưu trữ đó sẽ khiến đất nước này thường xuyên tối tăm như những quốc gia thuộc thế giới thứ ba.” Chi phí để xây dựng hệ thống lưu trữ điện quốc gia trong nhiều tuần bằng nhiên liệu hóa thạch là khoảng 100 tỷ USD.
Theo IEA, bất chấp điều đó, việc Mỹ vội vã sử dụng năng lượng tái tạo có nghĩa là khoảng một phần tư các nhà máy sản xuất than dự kiến sẽ ngừng hoạt động vào năm 2029. Điều này giống như “vừa chạy vừa buộc dây giày,” ông John Moura, giám đốc đánh giá độ tin cậy tại Tập đoàn Độ tin cậy Điện lực Bắc Mỹ (North American Electricity Reliability Corp., NERC), nói với The Epoch Times.
Đồng thời, các khoản trợ cấp cho xe hơi điện và các lệnh cấm sắp xảy ra đối với các động cơ đốt trong, hệ thống sưởi gia đình bằng gas, và thậm chí cả bếp gas đang ngày càng gây áp lực lên lưới điện.
“Lưới điện đã thực sự quá tải so với nhu cầu hiện tại,” ông Bryce nói. “Ý tưởng rằng chúng ta nên đưa tất cả nhu cầu năng lượng giao thông, nhu cầu năng lượng gia đình, và nhu cầu thương mại của chúng ta vào lưới điện sẽ thất bại vì ngày nay lưới điện rõ ràng không thể xử lý loại phụ tải đó, và tôi thực sự nghi ngờ rằng chúng ta sẽ có thể xử lý điều đó trong 10 hoặc thậm chí 20 năm nữa.”
Sự phụ thuộc ngày càng tăng của Mỹ vào ngoại quốc
Về bề mặt chiến lược, các khoáng sản cho năng lượng tái tạo được tìm thấy chủ yếu bên ngoài biên giới Hoa Kỳ và tập trung nhiều ở một số ít quốc gia hơn là sản lượng dầu giữa các nước OPEC. Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới và sản xuất 80% polysilicon, hai vật liệu chuyển tiếp thiết yếu, đồng thời là nguồn cung cấp 60% khoáng sản đất hiếm.
Cộng hòa Dân chủ Congo sản xuất hơn hai phần ba lượng coban của thế giới. Nga sản xuất 10% niken của thế giới. Chile sản xuất 20% đồng của thế giới.
Một báo cáo của Viện Brookings, một nhóm chuyên gia cố vấn ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, tuyên bố rằng “hiện nay Trung Quốc kiểm soát hầu hết hoạt động tinh chế khoáng sản quan trọng toàn cầu, và quyền kiểm soát nguyên liệu thô thượng nguồn của nước này cũng đang gia tăng.
“Về căn bản, họ kiểm soát đa phần hoạt động sản xuất pin cho xe điện trên thế giới, cũng như sản xuất tua-bin gió, tấm pin quang năng, lưu trữ năng lượng, và truyền tải điện, cùng các ứng dụng khác. Khi mọi thứ ổn định, thế giới phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung ứng từ Trung Quốc để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng và đáp ứng các mục tiêu khử cacbon.”
“[Bộ trưởng Năng lượng] Jennifer Granholm ưu ái nói về liên minh OPEC, và tôi đồng ý rằng đó là một liên minh,” ông Daniel Turner, giám đốc điều hành của Power the Future, nói với The Epoch Times. “Nhưng nếu chúng ta tách mình khỏi OPEC, để rồi trói mình vào [nhà lãnh đạo Trung Quốc] Tập Cận Bình, thì chúng ta sẽ không thực sự đạt được bất kỳ tiến bộ nào.”
Các chính phủ phương Tây đang chi hàng tỷ dollar để đưa một số hoạt động sản xuất này trở lại biên giới của họ, nhưng vì đa phần nguyên liệu thô được đặt ở ngoại quốc và thường nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc, nên việc sản xuất máy móc sử dụng năng lượng tái tạo của Mỹ sẽ bị hạn chế ở dây chuyền cuối cùng. Chính phủ TT Biden đã tích cực trong cả việc trợ cấp khai thác và ngăn chặn điều này vì lý do môi trường.
TT Biden đã sử dụng Đạo luật Sản xuất Quốc phòng để phân loại lithium, coban, than chì, niken, và mangan là thiết yếu đối với an ninh quốc gia, cho phép Bộ Quốc phòng trợ cấp cho hoạt động khai thác nội địa. Đồng thời, Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) đã tích cực ngăn chặn việc khai thác các mỏ mới. Mới đây nhất, hôm 31/01, EPA đã hủy bỏ dự án Pebble Mine, vốn từng là một trong những mỏ đồng lớn nhất của Mỹ, gần Vịnh Bristol ở Alaska.
Các giải pháp đáp ứng nhu cầu năng lượng của Mỹ
Chính phủ TT Biden khẳng định quá trình chuyển đổi này là thực tế và sẽ mang lại lợi ích cho người Mỹ. Phòng thí nghiệm năng lượng tái tạo quốc gia (NREL), một bộ phận của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ, đã khẳng định trong một bài báo có nhan đề “Xem xét các lựa chọn từ phía cung cấp để đạt được 100% điện sạch vào năm 2035” (pdf) rằng có “nhiều lựa chọn khác nhau để đạt được một hệ thống điện sạch 100% (được định nghĩa là lượng phát thải ròng khí nhà kính bằng không) vào năm 2035 có thể đưa Hoa Kỳ vào một lộ trình dẫn đến nền kinh tế toàn quốc có lượng phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
Báo cáo này nêu rõ rằng “dựa trên mức giảm chi phí giả định của các công nghệ năng lượng tái tạo, con đường đạt được khoảng 90% điện sạch là khá nhất quán trong tất cả các lựa chọn, và gió và mặt trời mang lại sản lượng lớn nhất trong ba trong số các lựa chọn, được bổ sung bằng việc khai triển hạt nhân quan trọng trong lựa chọn [thứ tư] này,” với nhiều công nghệ khác, bao gồm thu hồi carbon, lấp đầy khoảng trống này. Tuy nhiên, khi The Epoch Times yêu cầu giải thích rõ những kết luận đó của mình, NREL đã từ chối phỏng vấn.
Khi chính phủ TT Biden nỗ lực hạn chế sản xuất nhiên liệu hóa thạch nội địa, thì nhu cầu toàn thế giới đối với nhiên liệu này đang tăng lên nhanh chóng. Hai quốc gia không tham gia vào “sự chuyển đổi đáng kinh ngạc” này là Trung Quốc và Nga. Vào năm 2021, Trung Quốc đã bắt đầu xây dựng nhà máy sản xuất điện bằng điện than đá 33 gigawatt, chiếm hơn một nửa số nhà máy nhiệt điện than mới trên thế giới.
Ông Bryce đã nêu trong một báo cáo hồi tháng 10/2022 rằng “vào năm 2021, việc sử dụng hydrocarbon toàn cầu đã tăng nhanh hơn gần năm lần so với tốc độ tăng trưởng của phong năng và quang năng cộng lại. Năm ngoái, chỉ riêng mức tăng sử dụng hydrocarbon toàn cầu … đã gần bằng sản lượng của tất cả các dự án quang năng và phong năng trên Trái đất.” Điều này bất chấp chi tiêu toàn cầu là 1.5 ngàn tỷ USD cho năng lượng tái tạo từ năm 2004 đến 2019.
“Những lý do này rất rõ ràng,” ông Bryce nói. “Rõ ràng phong năng và quang năng không thể cung cấp được quy mô năng lượng đáng kinh ngạc mà thế giới cần với mức giá mà người tiêu dùng có thể mua được.”
“Các nhà hoạch định chính sách đang bắt đầu hiểu được khó khăn to lớn trong việc thay thế dù chỉ 10% lượng hydrocarbon toàn cầu — tương đương với phần do Nga cung cấp — chưa kể đến những điều bất khả thi khi cố gắng thay thế toàn bộ việc sử dụng hydrocarbon của xã hội bằng những công nghệ quang năng, phong năng và pin (SWB),” báo cáo của ông Mills nêu rõ. “Lộ trình duy nhất để giảm đáng kể giá năng lượng trong khi duy trì nền kinh tế sôi động — và tách chúng ra khỏi dầu mỏ và khí đốt tự nhiên của Nga — là hoàn toàn tăng cường sản xuất hydrocarbon.”
Nguyễn Lê biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Time