‘Abenomics’ thất bại khi Nhật Bản chuẩn bị tinh thần cho thời kỳ hậu Abe
Chiến lược kích cầu dưới dạng liệu pháp sốc đậm chất Abe của thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzo đã bị chững lại ngay cả trước khi ông quyết định từ chức vào thứ Sáu vì lý do sức khỏe.
Nhận xét thẳng thừng đó của các nhà quan sát tình hình nước Nhật đã nhấn mạnh thách thức chính trị khó khăn mà ông Abe phải đối mặt trong nỗ lực kéo nền kinh tế thoát ra khỏi nhiều thập kỷ trì trệ.
Các nhà phân tích cho hay, cuộc khủng hoảng do COVID-19 rất có thể là đòn chốt hạ cho chương trình cải cách ‘ba mũi tên’ của ông khi nền kinh tế chìm sâu hơn vào suy thoái.
Sau khi lên nắm quyền vào cuối năm 2012, Abe đã cho triển khai ba mục tiêu của chính sách kinh tế Abe – nới lỏng tiền tệ quy mô lớn, chi tiêu tài khóa và cải cách cơ cấu – để phục hồi nền kinh tế lớn thứ ba thế giới sau nhiều năm tăng trưởng dưới mức và giảm phát.
Và động thái này đã có một số thành công nhanh chóng.
Chương trình kích cầu lựu đạn “bazooka” của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nâng cao tâm lý thị trường và giúp đồng yên xuống giá, mang lại lợi nhuận bất ngờ cho các nhà xuất khẩu mà qua đó cải thiện mức lương và tăng việc làm.
Cải cách quản trị doanh nghiệp đã thu hút lượng lớn vốn từ nước ngoài, đẩy tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với các cổ phiếu niêm yết tại Nhật Bản lên mức kỷ lục 31,7% trong năm 2014, từ mức 28% vào năm 2012. Năm 2019, nó dừng ở mức 29,6%.
“Chúng tôi đã có thể chấm dứt 20 năm giảm phát với ba mũi tên của Abenomics”, Thủ tướng phát biểu trong một cuộc họp báo tuyên bố từ chức vào hôm thứ Sáu, khi được hỏi ông nghĩ gì sản của mình là gì.
Nhưng ông Abe sẽ để lại một chồng công việc dang dở cho người kế nhiệm.
Takeshi Minami, nhà kinh tế trưởng tại Viện nghiên cứu Norinchukin, cho biết: “Trọng tâm lúc này sẽ là phục hồi khỏi COVID-19 và kiểm soát sự lây nhiễm, bất kể ai sẽ là thủ tướng tiếp theo”.
“Đã có người nói rằng Abenomics đã và đang ảnh hưởng tiêu cực, vì vậy tôi nghĩ trọng tâm sẽ là đề xuất về việc thay đổi nó thế nào.”
Nỗi thất vọng lớn nhất đối với Thủ tướng và nhiều nhà quan sát tình hình Nhật Bản là những cải cách dưới mũi tên thứ ba nhằm định hình lại một nền kinh tế bấp bênh do năng suất thấp, dân số già nhanh và thị trường lao động cứng nhắc, đã trở nên xa vời.
Brian Kelly, giám đốc vận hành tại Asian Century Quest, cho biết: “Abenomics đặc biệt đã thất bại trong việc đem đến cho Nhật Bản những điều kiện nội địa có khả năng thúc đẩy tăng trưởng ngoài việc phụ thuộc nhiều hơn vào nhu cầu bên ngoài.”
Trả giá
Giờ đây, Nhật Bản đang phải trả giá khi COVID-19 xóa sổ những lợi ích ngắn hạn mà Abenomics mang lại, chẳng hạn như sự bùng nổ du lịch trong nước, tăng trưởng ổn định và tăng việc làm.
Việc ông Abe không thể lôi kéo các công ty chi nhiều hơn cho chi phí tài sản cố định đã mang lại cho doanh nghiệp Nhật Bản khoản tiền mặt khổng lồ, đóng vai trò như một quỹ thanh khoản dự phòng để chống chọi với cú sốc đại dịch.
Tuy nhiên việc này có thể được các doanh nghiệp dùng làm cớ để tiếp tục tích trữ tiền mặt thay vì dành cho các cơ hội kinh doanh mới, điều này có thể kìm hãm sự đột phá và đè nặng lên tiềm năng tăng trưởng của Nhật Bản — các yếu tố mà Abe đã tập trung giải quyết thông qua mũi tên thứ ba.
“COVID-19 có thể đã trấn an các giám đốc điều hành doanh nghiệp rằng tiền mặt thực sự là vua”, Hideo Hayakawa, thành viên cấp cao tại Tổ chức Nghiên cứu Chính sách Tokyo cho biết. “Tôi lo sợ khả năng rằng các doanh nghiệp thậm chí càng có xu hướng tiết kiệm hơn là chi tiêu.”
Các chính sách giãn cách xã hội và các ràng buộc kinh doanh khác để kiểm soát virus có thể làm tê liệt tiềm năng tăng trưởng – vốn đã thấp do tiến độ chậm chạp trong việc bãi bỏ sự bảo hộ các ngành nông nghiệp và y tế, đồng thời đón nhận thêm lao động nước ngoài để giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động kinh niên.
Theo ước tính của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ), tốc độ tăng trưởng tiềm năng của Nhật Bản, từng vượt quá 4% trong những năm 1980, đã trượt xuống gần 0% vào năm ngoái từ khoảng 1% trước khi Abenomics diễn ra.
Samuel Tombs, nhà kinh tế trưởng của Vương quốc Anh tại Pantheon Macroeconomics cho biết: “Cải cách cơ cấu, hay còn gọi là mũi tên thứ ba, đã là tuyên bố thất bại của Abenomics”.
“Ngay cả cuộc cải cách nhập cư điển hình của chính phủ vào năm ngoái cũng không có gì đáng chú ý, trên thực tế.”
Tư duy giảm phát
COVID-19 cũng đã dập tắt thử nghiệm hoành tráng của Abenomics nhằm xoay chuyển “tư duy giảm phát” của Nhật Bản, trong đó các công ty và hộ gia đình ngừng chi tiêu với niềm tin rằng mức tăng trưởng và lương thấp sẽ vẫn tồn tại.
Nền kinh tế đã vấp phải sự suy giảm kỷ lục trong quý thứ hai, khiến tổng sản phẩm quốc nội (GDP) danh nghĩa giảm xuống còn 507 nghìn tỷ yên (4,8 nghìn tỷ USD), xung quanh mức đạt được vào năm 2013 và còn xa so với mục tiêu 600 nghìn tỷ yên của Abe.
Yoshiki Shinke, nhà kinh tế trưởng tại Viện nghiên cứu Dai-ichi Life, cho biết: “Nền kinh tế Nhật Bản có thể đã vận hành tốt hơn sau Abenomics, nhưng không đủ để thay đổi tâm lý công chúng một cách đáng kể”.
“Với đại dịch, chúng ta có thể sẽ thấy tốc độ tăng trưởng giảm hơn nữa. Với nhiều di sản của Abenomics bị xóa sổ, chúng tôi biết rằng giờ đây không có cây đũa thần nào có thể khắc phục được những thảm họa kinh niên của Nhật Bản nữa”, ông nói.
Hơn nữa, với việc BOJ đã dốc cạn bộ công cụ chính sách của mình nhằm đạt tới mục tiêu lạm phát 2% xa vời, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với thách thức vực dậy nền kinh tế trong tình trạng khan hiếm đạn dược.
Các nhà phân tích cho biết, khoản nợ khổng lồ của Nhật Bản cũng hạn chế khả năng chi tiêu tài khoá lớn, điều này có thể gây suy yếu cho bất kỳ sự phục hồi kinh tế nào.
“Nhật Bản đã thất bại trong việc bình thường hóa các chính sách tài khóa và tiền tệ khi nền kinh tế còn trong tình trạng tốt hơn”, cựu thành viên hội đồng quản trị BOJ Takahide Kiuchi cho biết. “Bây giờ, nó đang phải trả giá.”