Tại sao bác sĩ không đề cập đến vi hệ đường ruột của bạn
Các phương pháp, quy trình và hướng dẫn có thể khiến việc điều trị của bác sĩ trở nên cứng nhắc. Lúc này, nhận thức và nhu cầu của công chúng là yếu tố quan trọng để tăng tốc tiến bộ của chăm sóc y tế.
Quản lý vi hệ đường ruột, thường bằng cách tăng các chủng vi khuẩn và nấm khác nhau – là phương pháp hữu hiệu để điều trị triệu chứng đau của hệ tiêu hóa và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Bằng chứng về hiệu quả của phương pháp trên đang ngày gia tăng. Nhưng các bác sĩ dường như vẫn còn mơ hồ về điều này. Lý do một phần là bởi họ cần dựa vào các hướng dẫn do hiệp hội chuyên gia phát triển để điều trị cho bệnh nhân. Không có hướng dẫn này, họ sẽ như bị mắc kẹt.
The American Gastroenterological Association (Hiệp Hội Tiêu hóa Hoa Kỳ – AGA) giải thích rằng các hướng dẫn có thể mất đến hai năm để phát triển, dù là bất kỳ bệnh lý nào. Nghĩa là, một căn bệnh với triệu chứng cụ thể phải được điều trị bằng các can thiệp được chứng minh trong những hoàn cảnh nhất định. Khi các hướng dẫn chuyên sâu được đưa ra, sẽ mô tả trình tự phương pháp chẩn đoán và điều trị cho từng giai đoạn bệnh, trong đó xét đến phương pháp điều trị trước đó. Các bác sĩ lâm sàng tuân theo hướng dẫn giống như áp dụng các bước trong một lưu đồ.
Một phần thách thức của việc lập ra lưu đồ là sự đa dạng và cá thể hóa của từng người bệnh và tình trạng đường ruột của họ.
Trong khi đó, nhiều bác sĩ cảm thấy thoải mái khi tiếp cận dựa trên vi hệ và áp dụng phác đồ của một số nghiên cứu. Bác sĩ sẽ chẩn đoán bằng xét nghiệm phân và điều trị bằng việc thay đổi cách ăn uống, bổ sung chất xơ hòa tan, men vi sinh, kháng sinh và cấy ghép vi sinh vật trong phân (FMT).
Công chúng dễ dàng tiếp cận nghiên cứu mới này và những bệnh nhân có vấn đề về ruột có thể theo dõi tiến triển chặt chẽ hơn so với bác sĩ. Vì vậy, không hiếm khi bệnh nhân tự giải quyết được vấn đề mà không cần đến bác sĩ.
Thậm chí, nhiều bệnh nhân thực hiện nghiên cứu của riêng họ và hướng dẫn bác sĩ về cách để cải thiện triệu chứng. Điều này khiến mọi việc dễ dàng hơn trong một hệ thống bị bộ máy quan liêu kìm hãm.
Một cuộc khảo sát mới đây với 142 bác sĩ tiêu hóa quốc tế đã làm sáng tỏ những gì đang xảy ra. Trong khi bác sĩ đồng ý rằng vi hệ đường ruột đóng một vai trò trong bệnh lý của bệnh viêm ruột (IBD), cuộc khảo sát cho thấy họ chưa áp dụng đúng mức các phương pháp điều trị tập trung vào vi hệ. Kết quả được công bố vào tháng 11/2023 trong tập san Microorganisms (Vi sinh vật).
Thiếu các nghiên cứu đầy đủ
Phần lớn bác sĩ đồng thuận về vai trò của vi hệ đường ruột trong điều trị IBD, “nhấn mạnh tầm quan trọng của các chiến lược tập trung vào vi sinh vật,” theo tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên, các bác sĩ do dự khi áp dụng phương pháp trên là bởi vấn đề thiếu dữ liệu nghiên cứu.
Ngay cả cơ chế vi hệ đường ruột dẫn đến viêm ruột cũng là đề tài còn gây tranh cãi. Theo bác sĩ Colleen Kelly, người phát ngôn của AGA, các bác sĩ Hoa Kỳ bị chia rẽ về việc liệu mất cân bằng vi hệ – thường được gọi là rối loạn vi hệ – là kết quả hay nguyên nhân của IBD. Điều này càng phức tạp hơn bởi các nghiên cứu không phải lúc nào cũng có kết quả.
Bà Kelly chia sẻ với The Epoch Times qua thư điện tử rằng, “Một số nghiên cứu xem xét việc điều chỉnh vi hệ đường ruột thông qua cách ăn uống, chất xơ hòa tan/men vi sinh, kháng sinh và FMT, nhưng thử nghiệm lâm sàng cho thấy chưa có can thiệp đáng tin cậy hiệu quả nào có thể được áp dụng để điều trị bệnh.”
Chất xơ hòa tan và men vi sinh có thể được bổ sung dưới dạng thực phẩm chức năng hoặc từ thức ăn chứa chất xơ và vi khuẩn. Thủ thuật FMT được tiến hành bằng cách đưa phân người hiến tặng khỏe mạnh vào đại tràng người bệnh bằng nội soi đại tràng hoặc thụt tháo – hoặc dùng dưới dạng viên nang. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã chấp thuận hai sản phẩm dạng viên trong năm qua để điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn C. diff.
Trở ngại của các bác sĩ
Những thách thức được báo cáo bao gồm chi phí điều trị cao, bằng chứng khiêm tốn và hướng dẫn điều trị khan hiếm. Đồng thời, bảo hiểm hiếm khi chi trả cho phương pháp không “dựa trên bằng chứng.” Dựa trên bằng chứng là một yêu cầu phức tạp vì việc áp dụng kết quả nghiên cứu vào lâm sàng cần đến hàng thập niên và thường liên quan đến hướng dẫn từ một hiệp hội chuyên nghiệp hoặc cơ quan y tế.
Các bác sĩ ngần ngại trong việc khuyến nghị men vi sinh do sự đa dạng về chủng loại và chi phí cao. Họ cũng đưa ra những đánh giá trái ngược về kháng sinh, do có nguy cơ tiêu diệt vi khuẩn cộng sinh quan trọng cho hệ miễn dịch vốn có vai trò giúp chống lại các đợt bùng phát trong tương lai.
FMT không phải là phương pháp được chấp thuận cho IBD, và mặc dù một số bác sĩ tin rằng FMT là lựa chọn tốt nhất, các tác giả cho biết FMT thường ít được áp dụng. Nhiều bác sĩ lo ngại về tác dụng phụ, tần suất điều trị, và sự không chắc chắn do thiếu nghiên cứu và hướng dẫn.
Một lượng lớn nghiên cứu về việc áp dụng FMT cho nhiều bệnh lý hưởng lợi từ việc phục hồi vi hệ đường ruột đang được tiến hành, mặc dù tác động lâu dài của phương pháp mới chưa được hiểu rõ. Một nguy cơ là vi khuẩn bất lợi cũng có thể được vào cơ thể bệnh nhân.
Cách tiếp cận khác
Bác sĩ Joel Evans, trưởng bộ phận y khoa tại Viện Y học Chức năng, người sáng lập Trung tâm Y học Chức năng chia sẻ rằng, các bác sĩ chức năng thường cung cấp thực đơn ăn uống, chất xơ hòa tan, men vi sinh, và thậm chí cả FMT cho bệnh nhân vì họ hoạt động dựa trên tiêu chí “biological plausibility (sự hợp lý sinh học).”
Sự hợp lý sinh học khiến bác sĩ chức năng xem xét bất kỳ phương pháp nào có ý nghĩa khoa học. Cả bác sĩ và bệnh nhân phải hiểu cơ chế hoạt động của phương pháp điều trị và nguy cơ cần đối mặt, đồng thời hạn chế tối đa rủi ro cho người bệnh.
Vấn đề mà bệnh nhân gặp phải khi khám bác sĩ tiêu hóa là kết quả của hệ thống “thực hành dựa trên bằng chứng.” Tiến sĩ Evans chia sẻ với The Epoch Times rằng các bác sĩ đã tự động hóa cách điều trị xung quanh hướng dẫn từ các tổ chức như AGA. Công ty bảo hiểm hiếm khi chi trả cho bất cứ điều gì không “dựa trên bằng chứng,” khiến họ không thể thoát khỏi mô hình này.
Ông nói, “Chúng ta phải bắt đầu với giả định rằng các bác sĩ là có thiện chí. Qua nhiều năm, y học trở nên phức tạp hơn, có nghĩa là khoa học và phát hiện mới cũng trở nên phức tạp hơn.”
“Đồng thời, bác sĩ phải làm việc vất vả hơn vì họ cần điều trị cho nhiều bệnh nhân, dành ít thời gian cho mỗi bệnh nhân, dành nhiều thời gian cho việc ghi chép bệnh án, vì vậy họ có ít thời gian để học hỏi những điều mới.”
Tiến sĩ Evans cho biết tất cả những thay đổi hệ thống này đã góp phần vào “độ trễ dịch chuyển,” là khoảng thời gian mà một khám phá nghiên cứu cần trải qua để được áp dụng vào thực hành y học – khoảng 17 năm.
Ông nói, “Một trong những cách để rút ngắn khoảng cách 17 năm này là nâng cao nhận thức của công chúng. Điều này làm tăng nhu cầu của công chúng, đồng thời, bệnh nhân bắt đầu yêu cầu được chăm sóc khác đi và hy vọng chúng ta sẽ rút ngắn 17 năm xuống còn 3-5 năm.”
Thay đổi cách ăn uống
Với những bệnh nhân không được điều trị bởi bác sĩ chức năng thông thạo các phương pháp mới, cách đơn giản nhất là thay đổi thực đơn ăn uống. Nhiều loại thực phẩm được chứng minh là có ảnh hưởng đến vi hệ đường ruột. Tuy nhiên, một số thực phẩm có thể giúp cải thiện sức khỏe cho một số người, nhưng lại có thể làm trầm trọng thêm cho những người khác.
Ví dụ, người mắc hội chứng loạn khuẩn ở ruột non (SIBO) – thường gặp trên bệnh nhân IBD – hiếm khi dung nạp chất xơ và thực phẩm lên men, đặc biệt là số lượng lớn, cũng như thực phẩm chức năng chứa chất xơ hòa tan và men vi sinh.
Trong bệnh SIBO, vi khuẩn vốn không cư trú ở ruột non lại xuất hiện tại đây và làm lên men một số thực phẩm, gây ra rối loạn tiêu hóa. Tuy nhiên, những thực phẩm gây kích thích cho bệnh nhân này lại cải thiện sức khỏe đường ruột cho bệnh nhân khác, khiến cả bệnh nhân và bác sĩ bối rối. Hơn nữa, độ nhạy và không dung nạp thực phẩm của mỗi người là khác nhau, và rất ít bác sĩ kiểm tra vấn đề này.
Đó là lý do tại sao Tiến sĩ Ellie Campbell, chuyên gia chăm sóc sức khỏe tích hợp, khuyến nghị người chồng của mình, một bệnh nhân Crohn, tìm kiếm giải pháp khác ngoài những gợi ý của bác sĩ tiêu hóa để cải thiện triệu chứng. Ông được tiên lượng rằng phải dùng thuốc suốt đời mà không bảo đảm sẽ không có triệu chứng trong tương lai.
Cuối cùng, ông loại bỏ hoàn toàn gluten và siro ngô hàm lượng fructose cao trong khẩu phần ăn và hiếm khi phải dùng thuốc trừ khi căng thẳng làm trầm trọng thêm triệu chứng. Nhưng phải mất một thời gian để ông thay đổi cách ăn uống.
Tiến sĩ Campbell chia sẻ với The Epoch Times, “Người ta nói rằng trong một số trường hợp, việc thay đổi cách ăn uống còn khó hơn thay đổi tôn giáo của một người. Có nhiều vấn đề nan giải cần giải quyết. Đường ruột của bạn không phải là một nghiên cứu mù đôi giả dược. Đặc điểm của mỗi người là khác nhau và đường ruột có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, như cách chúng ta ăn, thứ chúng ta ăn, khi chúng ta không ăn và khi ngủ. Tất cả những điều này gây tác động đến vi hệ đường ruột. Vì vậy, tôi không thể đưa cho mọi người cùng một loại men và mong đợi cùng một kết quả. Điều này khiến khoa học trở nên khó khăn và đầy thách thức.”
Những vấn đề trên không làm giảm sự thất vọng của bệnh nhân hay bác sĩ, những người bị trói buộc trong một hệ thống dựa trên quy tắc.
Tiến sĩ Kelly thừa nhận rằng một hoạt động y tế lý tưởng là hoạt động được đưa ra dựa trên quyết định điều trị, thay vì mối quan tâm về tài chính và bảo hiểm. Bà nói, lý tưởng nhất là hoạt động này có tính đa ngành với khả năng tiếp cận dinh dưỡng và trợ giúp tâm lý. Cho đến nay, bà thường khuyên bệnh nhân nên tránh dùng thực phẩm chế biến sẵn và các chất phụ gia như màu thực phẩm, chất làm đặc, và chất làm ngọt nhân tạo.
Tiến sĩ Kelly chia sẻ, “Thay đổi cách ăn uống của bệnh nhân là một công việc khó khăn. Ngay cả những bệnh nhân có động lực lớn cũng gặp vấn đề khi tuân theo thực đơn ăn uống hạn chế hoặc khác biệt. Không phải bác sĩ tiêu hóa nào cũng được đào tạo về dinh dưỡng, và công ty bảo hiểm không phải lúc nào cũng chi trả cho cuộc gặp mặt giữa bệnh nhân và một chuyên gia dinh dưỡng.”
Tính khả thi của điều trị cá thể hóa
Bảo hiểm thường không chi trả cho xét nghiệm thành phần vi sinh. Các bác sĩ trong cuộc khảo sát cho biết, những hướng dẫn rõ ràng cho công cụ chẩn đoán này có thể phải đi một chặng đường dài để chỉ dẫn cho quyết định điều trị cá thể hóa.
Chỉ 3% số người được khảo sát thường xuyên áp dụng xét nghiệm nêu trên, và 63% không bao giờ áp dụng, trong khi 29% thỉnh thoảng áp dụng. Lý do là bởi:
- Thiếu giá trị tham chiếu về loại vi khuẩn bị thiếu trong vi hệ đường ruột của bệnh nhân.
- Bảo hiểm không hoàn trả
- Thiếu ứng dụng trong thực hành lâm sàng.
- Khó khăn trong phiên giải kết quả.
Trong khi đó, xét nghiệm kể trên lại thường được các bác sĩ chức năng áp dụng, bao gồm cả Tiến sĩ Campbell. Bà nói rằng dù có thách thức trong việc chăm sóc lấy vi hệ làm trung tâm, nhưng không có nghĩa là bác sĩ không nên cố gắng giúp đỡ những người có triệu chứng về đường ruột. Bà cho biết có một số biểu đồ giúp hướng dẫn các quyết định về chế phẩm sinh học.
Tiến sĩ Evans nói, “Nếu bệnh nhân SIBO dùng men vi sinh, không có nghĩa là họ sẽ rơi vào tình trạng cấp cứu cần đến bệnh viện. Nhưng chắc chắn điều này sẽ khiến họ khó chịu. Nếu bạn ý thức được điều gì khiến triệu chứng của mình tệ hơn, hãy ngừng dùng thứ đó.”
Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân cần nhiều hơn một loại men vi sinh nếu họ có triệu chứng về đường ruột và có thể cần sự hướng dẫn của bác sĩ chức năng, ông cho biết. Bác sĩ sẽ đánh giá xem liệu bệnh nhân có thiếu chất xơ hay enzyme cần thiết cho tiêu hóa không. Tiến sĩ Evans cũng chia sẻ rằng bệnh nhân SIBO thường không biết họ cần dùng loại men vi sinh bào tử.
Tiến sĩ Campbell cho biết có hy vọng về phương pháp điều trị IBD mà bệnh nhân không cần dùng dược phẩm suốt đời. Bà nói, cuộc khảo sát là sự bảo đảm rằng y học đang đi đúng hướng.
Thiên Vân biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times.