Những người thành đạt có nguy cơ tự tử cao hơn
Alexandra Robbins là một người có thành tích vượt bậc. Cô đã tốt nghiệp loại xuất sắc – danh hiệu cao nhất – từ Đại học Yale chỉ để nhận ra rằng điều đó chẳng có ý nghĩa gì ngay vào ngày tốt nghiệp của mình.
Là một người thành đạt điển hình, cô đã đánh đồng giá trị bản thân với mục tiêu của mình đến mức nó được ưu tiên hơn mọi thứ khác. Việc theo đuổi thành công không dẫn đến hạnh phúc. Đây là điều cô đã nhận ra và trình bày chi tiết trong cuốn sách “Những Người Thành Đạt: Cuộc Sống Bí Mật của Những Đứa Trẻ được Định Hướng.”
Kinh nghiệm của Robbins minh họa mặt tiêu cực của việc đạt thành tích quá cao, nhưng thậm chí còn có mặt tối hơn. Trong hành trình tìm kiếm thành công theo chủ nghĩa hoàn hảo, những người thành đạt quá mức có thể đang gây căng thẳng cho quá trình sinh hóa của cơ thể. Từ đó, dẫn đến hiện tượng thiếu methyl hóa, có liên quan đến trầm cảm và ý nghĩ tự tử.
Rối loạn methyl hóa được kích hoạt bởi các yếu tố lối sống làm bật hoặc tắt sự biểu hiện của các gene đột biến mà những người đạt thành tích quá cao dễ mắc phải về mặt di truyền. Nghiên cứu cho thấy rằng 15 đến 20% những người thiếu methyl hóa quá mức có khả năng sẽ bị trầm cảm.
Tình trạng đáng lo ngại về việc thanh niên có thành tích quá cao tự tử tại các trường đại học hàng đầu của Mỹ trong vài năm qua đã thu hút sự chú ý nghiêm túc đến mối tương quan giữa những người có thành tích vượt trội và tự tử, nhưng cho đến nay vẫn chưa có lời giải thích thỏa đáng cho điều đó.
Thành tích và căng thẳng
Các yếu tố căng thẳng về môi trường đóng một vai trò quan trọng trong việc gây ra trầm cảm. Hiện tượng này xuất hiện phổ biến ở trường đại học, đặc biệt là đối với những người có thành tích quá cao. Áp lực phải đạt điểm, được vào đội của trường, giành được một vị trí trong câu lạc bộ tranh luận, …, có thể tạo ra gánh nặng tâm lý trong một số trường hợp nhất định, đặc biệt đối với những người luôn hướng đến thành tích quá cao.
Theo một ấn phẩm của Viện Y tế Quốc gia, ước tính có 1,100 sinh viên đại học tự tử mỗi năm và gần 24,000 người cố gắng làm điều này. Theo một phân tích dữ liệu chính thức, khi sự cạnh tranh, chi phí [học tập] và áp lực để vào được những trường tốt nhất tăng lên, tỷ lệ tự tử ở thanh niên, độ tuổi 15-24, đã tăng gấp ba lần kể từ những năm 1950.
Theo Philly Voice, tại University of Pennsylvania năm 2017, sáu sinh viên đã qua đời vì tự tử trong khoảng thời gian 13 tháng. Cornell University có sáu vụ tự tử trong năm học 2009-2010. Năm 2003-2004, năm sinh viên Đại học New York đã nhảy lầu tự tử. Năm 2018, một sinh viên y khoa năm thứ tư và một bác sĩ nội trú tại NYU đã tự sát cách nhau 5 ngày.
Theo Viện Y tế Quốc gia, mặc dù theo thống kê, tự tử có nhiều khả năng cướp đi sinh mạng của những người trẻ tuổi, nhưng trong toàn bộ dân số Hoa Kỳ, tỷ lệ trầm cảm và tự tử đã tăng 28% trong khoảng thời gian 17 năm từ 1999 đến 2016. Những người thành đạt quá mức chiếm tỷ lệ cao hơn.
Những cái chết tự sát không đúng lúc của nhà văn chuyên viết ẩm thực nổi tiếng vô cùng thành công Anthony Bourdain và biểu tượng thời trang Kate Spade là hai ví dụ nổi bật khiến chúng ta bị sốc trong năm nay và để lại nhiều câu hỏi: Tại sao một người có vẻ như đã có tất cả lại đột nhiên tự tử?
CDC đã công bố một báo cáo về xu hướng tự tử cùng tuần với cái chết của Kate Spade. Tác giả chính, ông Deborah M. Stone, đã nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn trên phương tiện truyền thông rằng tự tử có nhiều khả năng xảy ra ở những người chưa bao giờ được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần hơn những người được chẩn đoán mắc bệnh trầm cảm.
Giống như các ví dụ trên, nhiều người trong số họ có thành tích cao, nhưng khi rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng, họ không có xu hướng tìm kiếm sự giúp đỡ vì họ có thể cảm thấy tổn hại đối với danh tiếng của mình là quá lớn. Họ vẫn có thể thể hiện bản thân nên họ cứ tiếp tục.
Theo phân tích dữ liệu của Business Insider từ Viện An toàn và Sức khỏe Lao động Quốc gia, kỹ sư hàng hải, bác sĩ, nha sĩ, bác sĩ thú y và nhân viên tài chính có nhiều khả năng tự tử tại nơi làm việc nhất.
Những người này có xuất thân cũng như hoàn cảnh dẫn đến việc tự tử rất khác nhau, nhưng tôi thấy rằng họ có một điểm chung. Người lao động trong những ngành nghề này có xu hướng cầu toàn vì đây là những kỹ năng mà công việc yêu cầu.
Nhưng những người có thành tích vượt trội làm việc trong những ngành nghề này cũng ít có khả năng tìm kiếm sự giúp đỡ nhất. Với tư cách là những chuyên gia được người khác tin tưởng và trông cậy để thực hiện các dịch vụ, họ lại càng kỳ thị bệnh tâm thần.
Và đối với những người thành đạt vượt trội, việc tìm kiếm sự giúp đỡ có vẻ giống như thất bại và không thể chấp nhận được. Họ thà buộc bản thân làm việc chăm chỉ hơn để khắc phục điểm yếu. Thật không may, điều này sẽ làm trầm trọng thêm các vấn đề sức khỏe tâm thần của họ.
Những người thành đạt vượt trội và rối loạn methyl hóa
Tôi nhận thấy có niềm hy vọng mới cho những người đạt thành tích vượt trội. Thay đổi cách nhìn nhận vấn đề và giảm bớt sự kỳ thị đối với bệnh tâm thần sẽ giúp họ muốn tìm kiếm sự giúp đỡ hơn.
Ông Steve G (bút danh) đã làm việc vô cùng chăm chỉ để lên vị trí đối tác quản lý cấp cao tại một công ty ngân hàng đầu tư quốc tế. Ông thành công nhưng lại giữ kín một bí mật đen tối rất lâu với vợ và ba đứa con: ám ảnh ý nghĩ muốn kết thúc cuộc đời.
Ông may mắn khám phá được thông tin trực tuyến về phương pháp điều trị trầm cảm không dùng thuốc, xem vấn đề qua lăng kính sinh hóa của cơ thể, một thứ gọi là rối loạn methyl hóa. Ông tự hỏi liệu mình có bị rối loạn methyl hóa hay không.
Ông Steve G rất sợ bị cho là mắc bệnh tâm thần nên ông hy vọng rằng chứng trầm cảm của mình có thể có lời giải thích hợp lý.
Ông cũng bị thu hút bởi khả năng tránh được những tác dụng phụ về tình dục nổi tiếng của thuốc chống trầm cảm mà bác sĩ gia đình khuyên dùng. Tình dục trong cuộc hôn nhân là điều duy nhất ông vẫn thích.
Ông Steve G đã phát hiện ra thông tin có khả năng cứu sống bản thân trên trang web của Viện nghiên cứu Walsh, trang này bao gồm danh sách các bác sĩ điều trị bệnh nhân rối loạn methyl hóa.
Bốn năm trước, tôi đã tham dự một hội thảo với Tiến sĩ William Walsh. Ông đã trình bày những phát hiện của mình dựa trên nghiên cứu sâu rộng về 30,000 loại bệnh tâm thần.
Nghiên cứu của ông thiết lập mối liên quan rõ ràng giữa trầm cảm và sự mất cân bằng sinh hóa trong cơ thể con người. Đó là sự rối loạn methyl hóa. Nghiên cứu cho thấy rằng 38% những người bị trầm cảm nặng bị thiếu methyl hóa, trong khi 20% khác bị methyl hóa quá mức do thiếu folate.
Tiến sĩ Walsh cũng đã cho thấy rằng liệu pháp vitamin không dùng thuốc, có mục tiêu có khả năng sửa chữa các quá trình methyl hóa bị hỏng. Nghiên cứu mang tính đột phá của ông đã được công bố trong một cuốn sách có tựa đề phù hợp: “Sức Mạnh Dinh Dưỡng: Chữa Lành Sinh Hóa và Chữa Lành Bộ Não.”
Sau khi gặp bác sĩ mới, ông Steve G biết được rằng mình thực sự đang thiếu quá trình methyl hóa. Ông cảm thấy nhẹ nhõm vì đã được tư vấn về tình trạng mất cân bằng sinh hóa do rối loạn chức năng não chứ không phải do bệnh tâm thần. Trên thực tế, ông đã gọi bác sĩ của mình là “bác sĩ vitamin.”
Ông được kê toa một loại cocktail dinh dưỡng để khôi phục quá trình methyl hóa trở lại bình thường, và sau khoảng ba tháng, ông bắt đầu nhận thấy dễ chịu hơn. Ông chơi với con nhiều hơn và ý nghĩ tự tử của ông chỉ xuất hiện thoáng qua thay vì liên tục như trước.
Quá trình methyl hóa có tác dụng như thế nào?
Hóa sinh của cơ thể bao gồm các phản ứng hóa học rất đa dạng và phức tạp nhằm điều khiển các chức năng, như suy nghĩ, tiêu hóa và vận động. Các vitamin, enzyme, protein cụ thể, …, giống như các bộ phận phải lắp vào các chỗ cụ thể để kích hoạt các mạch hóa học.
Việc thiếu hoặc có quá nhiều, quá ít một bộ phận có nghĩa là phần đó đang không hoạt động tốt nhất. Kết quả là có thể thực sự dẫn đến các bệnh về thể chất và tinh thần.
Methyl hóa là một trong những quá trình sinh hóa trong cơ thể rất quan trọng đối với sức khỏe. Ước tính có khoảng 30% dân số nói chung mắc chứng rối loạn methyl hóa.
Quá trình methyl hóa ảnh hưởng đến mức độ sao chép và tái tạo DNA, hiệu quả trong việc loại bỏ độc tố của gan và chức năng tạo ra các chất dẫn truyền thần kinh cần thiết cho sức khỏe tâm thần bình thường của bộ não.
Trong quá trình methyl hóa, một phân tử sẽ chuyển một nhóm methyl (CH3) cho DNA để điều chỉnh chức năng của gene và ảnh hưởng đến sự biểu hiện gene. Để hoàn thành bước này cần có sự trợ giúp của một số vitamin, khoáng chất và enzyme, bao gồm cả gene MTHFR.
Thiếu hoặc không đủ chất dinh dưỡng cũng như đột biến gene của một số enzyme có thể khiến quá trình methyl hóa không đầy đủ. Tình trạng này được gọi là thiếu methyl hóa.
Một người bị thiếu methyl hóa thường có nồng độ serotonin và dopamine thấp, histamine máu toàn phần cao và lượng bạch cầu ưa kiềm tuyệt đối tăng cao. Ngoài ra những người này còn có xu hướng thiếu calcium (canxi), magnesium (magie), methionine, vitamin B6 và hàm lượng acid folic quá cao. Liệu pháp dinh dưỡng phục hồi mức độ trở lại bình thường và phục hồi chức năng methyl hóa bình thường.
Bác sĩ của ông Steve G hành nghề y học tích hợp nên đã dùng phương pháp điều trị châm cứu và phản hồi thần kinh để điều trị căng thẳng và chứng đau lưng mạn tính cho ông. Điều này giúp ông cảm thấy tốt hơn ngay lập tức. Những thay đổi trong cách ăn uống và lối sống theo thời gian đã giúp ông giảm bớt một số yếu tố môi trường gây ra chứng trầm cảm.
Sau hai năm, ông Steve nghĩ rằng bản thân không chắc có thể sống sót qua giai đoạn đó nếu không có sự giúp đỡ. Ông cũng bày tỏ sự thất vọng về lý do tại sao các dịch vụ tâm thần chính thống không cung cấp loại hình điều trị mà ông đã nhận được.
Có một thực tế là đại đa số bác sĩ không bao giờ xem xét kết quả sinh hóa của bệnh nhân. Tôi hy vọng điều này sẽ thay đổi, nhưng trong lúc này, những người đang tìm kiếm sự trợ giúp không dùng thuốc cho bệnh trầm cảm cần tìm một bác sĩ y học tích hợp để điều trị chứng rối loạn methyl hóa.
Mối liên kết rõ ràng
Tại một thời điểm nào đó, tôi nhận thấy rằng đặc tính sinh hóa do thiếu methyl hóa, đặc biệt là serotonin và dopamine thấp, phù hợp với đặc điểm tính cách của người thành đạt điển hình, có động lực cao, cầu toàn và có tính cạnh tranh trong thể thao và cuộc sống nói chung.
Tôi muốn biết Tiến sĩ Walsh nghĩ gì nên tôi đã trình bày quan sát của mình với ông ấy.
Tiến sĩ Walsh nói, “Chắc chắn là như vậy! Đặc điểm của những người thiếu methyl hóa phù hợp với tính cách và các triệu chứng lâm sàng của những người đạt thành tích quá cao.”
Tiến sĩ Walsh cho biết những người đạt thành tích quá cao có thể hưởng lợi khi bổ sung các chất dinh dưỡng nếu họ có thể điều trị trong 6-8 tháng hoặc lâu hơn. Nhưng ông cảnh báo họ là những bệnh nhân tệ nhất về mặt tuân thủ.
Đối với những người có thành tích vượt trội, việc tuân thủ là một vấn đề lớn.
Trên thực tế, ông Steve G luôn phàn nàn rằng ông muốn bỏ cuộc trong mỗi cuộc hẹn.
Tôi đã thấy rằng việc không thể từ bỏ nhu cầu kiểm soát, mong muốn đạt được kết quả nhanh chóng, phủ nhận trầm cảm và sợ đau đớn, đều có thể góp phần gây ra khó khăn trong vấn đề tuân thủ.
Phương Vy biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times