Nghiên cứu sơ bộ: RNA của virus có thể tồn tại trong 2 năm sau nhiễm COVID-19
Một nghiên cứu sơ bộ gần đây cho thấy lý do tại sao một số người không bao giờ trở về bình thường sau nhiễm COVID-19, thay vào đó lại phát triển các tình trạng bệnh lý mới hoặc COVID kéo dài.
Một nghiên cứu mới giải thích lý do tại sao một số người nhiễm COVID-19 không bao giờ trở về bình thường mà thay vào đó bị các bệnh mới như bệnh tim mạch, rối loạn chức năng đông máu, kích hoạt virus tiềm ẩn, tiểu đường, hay “COVID kéo dài” sau nhiễm SARS-CoV-2.
Trong một nghiên cứu sơ bộ gần đây được công bố trên medRxiv, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu hình ảnh chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) đầu tiên về tế bào T hoạt hóa ở những người bình phục sau nhiễm COVID-19. Họ phát hiện SARS-CoV-2 có thể khiến tế bào T hoạt hóa dai dẳng ở nhiều mô cơ thể trong nhiều năm sau triệu chứng nhiễm trùng đầu tiên.
Ngay cả với trường hợp COVID-19 nhẹ trên lâm sàng, hiện tượng này có thể giải thích những thay đổi mang tính hệ thống được quan sát thấy trong hệ miễn dịch và ở người có triệu chứng COVID kéo dài.
Tuy nhiên, hầu hết người tham gia đều đã chích ngừa và nghiên cứu không điều tra mối liên quan giữa sự tồn tại của RNA virus và vaccine.
RNA SARS-CoV-2 được tìm thấy ở người tham gia
Để thực hiện nghiên cứu, các tác giả đã tiến hành chụp PET toàn cơ thể cho 24 người tham gia khỏi bệnh sau nhiễm cấp SARS-CoV-2 tại các thời điểm từ 27 đến 910 ngày sau khi xuất hiện triệu chứng COVID-19.
Chụp PET là một xét nghiệm hình ảnh dùng thuốc phóng xạ là chất đánh dấu để đánh giá chức năng chuyển hóa hoặc sinh hóa của mô và cơ quan, từ đó tiết lộ hoạt động chuyển hóa bình thường và bất thường. Chất đánh dấu thường được chích vào bàn tay hoặc tĩnh mạch ở cánh tay và tập trung ở vùng có mức chuyển hóa hoặc sinh hóa cao trên cơ thể, từ đó tiết lộ vị trí của bệnh.
Bằng cách dùng một tác nhân dược phẩm phóng xạ mới giúp phát hiện các phân tử cụ thể liên quan đến tế bào lympho T, các nhà nghiên cứu nhận thấy những người sau nhiễm cấp COVID-19 có sự hấp thu chất đánh dấu cao hơn đáng kể ở thân não, tủy sống, tủy xương, mô bạch huyết vòm họng và rốn phổi, mô tim phổi và thành ruột so với người không nhiễm COVID-19 trước đại dịch. Trong khi đó, nam giới có xu hướng hấp thu chất phóng xạ cao hơn ở amidan họng, thành trực tràng và mô bạch huyết rốn phổi so với nữ giới.
Các nhà nghiên cứu đã xác định sự tồn tại của RNA SARS-CoV-2 trong tế bào mô ruột ở tất cả người tham gia có triệu chứng COVID kéo dài đã trải qua sinh thiết — trong trường hợp không tái nhiễm — trong khoảng từ 158 đến 676 ngày sau nhiễm COVID-19 ban đầu, cho thấy rằng sự tồn tại của virus ở mô có liên quan đến những lo ngại về miễn dịch lâu dài. Mặc dù sự hấp thu chất đánh dấu ở một số mô dường như giảm theo thời gian, nhưng nồng độ vẫn tăng cao so với nhóm đối chứng gồm những tình nguyện viên khỏe mạnh trước đại dịch.
Các nhà nghiên cứu viết: “Dữ liệu này mở rộng đáng kể những quan sát trước đây về phản ứng miễn dịch tế bào lâu dài và rối loạn chức năng do SARS-CoV-2, đồng thời cho thấy nhiễm SARS-CoV-2 có thể dẫn đến trạng thái ổn định miễn dịch mới trong những năm hậu COVID-19.”
Để xác định mối liên quan giữa tế bào T hoạt hóa và triệu chứng COVID kéo dài, các nhà nghiên cứu đã so sánh người tham gia sau nhiễm cấp COVID-19 có và không có COVID kéo dài tại thời điểm chụp PET. Những người bị COVID kéo dài báo cáo có trung bình 5.5 triệu chứng tại thời điểm chụp. Các phát hiện cho thấy “sự hấp thu cao hơn không đáng kể” ở tủy sống, hạch bạch huyết rốn phổi và thành đại tràng/trực tràng ở người bị COVID kéo dài.
Ở người bị COVID kéo dài báo cáo năm triệu chứng trở lên tại thời điểm chụp, các tác giả quan sát thấy tình trạng tăng các dấu hiệu viêm, “bao gồm protein liên quan đến phản ứng miễn dịch, tín hiệu chemokine, phản ứng viêm và sự phát triển của hệ thần kinh.” So với các giải pháp kiểm soát trước đại dịch và người nhiễm COVID-19 đã bình phục hoàn toàn, người bị COVID kéo dài cho thấy tình trạng tế bào T hoạt hóa cao hơn ở tủy sống và thành ruột.
Tất cả trừ 1 người tham gia đã chích ngừa
Các nhà nghiên cứu cho rằng phát hiện này đang hướng đến SARS-CoV-2, mặc dù trừ một người tham gia, tất cả đều đã chích ít nhất một mũi vaccine COVID-19 trước khi chụp PET.
Để giảm thiểu tác động của việc chích ngừa với hoạt hóa tế bào T, người tham gia sẽ chụp PET sau hơn 60 ngày kể từ khi chích vaccine, ngoại trừ một người nhận liều vaccine bổ sung sáu ngày trước khi chụp. Những người chích vaccine COVID-19 trong vòng 4 tuần kể từ khi chụp đều bị loại trừ.
Các nhà nghiên cứu cũng phân loại nhóm người tham gia bằng việc nhận liều COVID-19 nhiều hoặc ít hơn 180 ngày trước khi chụp PET.
Các tác giả cho biết nghiên cứu trên còn một số hạn chế, bao gồm cỡ mẫu nhỏ, nghiên cứu tương quan hạn chế, các biến thể đang phát triển, việc triển khai vaccine COVID-19 nhanh chóng và không nhất quán khiến quy trình chụp phải được thay đổi, dùng các cá nhân trước đại dịch làm đối chứng và cực kỳ khó khăn trong việc tìm kiếm những người chưa bao giờ nhiễm SARS-CoV-2.
Thanh Ngọc biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times