Bài đánh giá cho biết rằng không có đủ bằng chứng để chứng minh lợi ích lâu dài của việc điều trị y tế cho những trẻ muốn chuyển sang giới tính khác.
Vương quốc Anh có thể là quốc gia thứ ba rút khỏi lộ trình điều trị “khẳng định giới tính” do các đề nghị từ một báo cáo được chờ đợi từ lâu.
Vào tháng Tư, quốc gia này đã công bố trên Cass Review bài “tóm tắt toàn diện nhất về y học dành cho người chuyển giới,” nhà tâm lý học Erica Anderson, người xác định là người chuyển giới và có bằng tiến sĩ tâm lý học lâm sàng, nói với The Epoch Times.
Bài đánh giá, do Tiến sĩ Hilary Cass, bác sĩ danh dự người Anh, chuyên gia tư vấn về khuyết tật trẻ em, đồng thời là cựu chủ tịch của Đại học Nhi khoa và Sức khỏe Trẻ em Hoàng gia, tuyên bố rằng không có đủ bằng chứng để chứng minh lợi ích lâu dài của việc điều trị y tế cho những trẻ muốn chuyển sang giới tính khác. Thay vào đó, đánh giá khuyến nghị tập trung vào liệu pháp tâm lý.
Đối với một số bác sĩ lâm sàng và nhà nghiên cứu, khuyến nghị này đã có từ lâu. Những người khác lo ngại rằng nó có khả năng đe dọa đến việc y tế hóa – hiện là phương pháp điều trị chính – đối với những thanh thiếu niên không phân biệt giới tính.
Cơ quan Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS) Anh, cơ quan thực hiện báo cáo vào năm 2020, cho biết họ sẽ cam kết tuân theo các khuyến nghị.
Tuyên bố viết: “Báo cáo cuối cùng của [Cass Review] sẽ không chỉ định hình tương lai của ngành chăm sóc sức khỏe ở đất nước này cho trẻ em và thanh thiếu niên gặp khó khăn về giới tính mà còn có tầm quan trọng và ý nghĩa quốc tế to lớn.”
Tám ngày sau khi trang Cass Review phát hành bài viết, hội đồng y tế của Scotland đã thông báo tạm dừng kê toa mới đối với thuốc ngăn chặn tuổi dậy thì và các hormone nữ tính hóa (cross-sex hormones) khi họ thu thập bằng chứng trợ giúp tính an toàn và hiệu quả lâm sàng của những loại thuốc này.
‘Sự kết thúc của một kỷ nguyên’
Trang Cass Review dựa trên công trình khoa học của 237 bài báo, bao gồm 214 nghiên cứu, 21 hướng dẫn và hai tuyên bố quan điểm, bao gồm dữ liệu của hơn 113,000 trẻ em và thanh thiếu niên. Các tác giả cũng phân tích dữ liệu ẩn danh từ hơn 3,700 trẻ em được chẩn đoán mắc chứng phiền muộn về giới, phản hồi khảo sát từ các chuyên gia, cũng như nhiều cuộc phỏng vấn và lời khai từ các bên liên quan đến vấn đề này.
Nhóm đánh giá đã ủy quyền cho các nhà nghiên cứu tại Đại học York tiến hành các tổng quan hệ thống về các bài báo này và nhận phản hồi bằng cách phỏng vấn trẻ nhỏ không phù hợp giới tính, cha mẹ của trẻ và bác sĩ lâm sàng.
Đại học York tiết lộ rằng họ đã phỏng vấn 12 thanh niên là thành viên của các tổ chức tình nguyện hoặc Dịch vụ Phát triển Nhận dạng Giới tính (GIDS) của Vương quốc Anh, cùng với 12 phụ huynh. Các nhà nghiên cứu của trường đại học cũng đã phỏng vấn các bác sĩ lâm sàng tại phòng khám nhận dạng giới tính của Vương quốc Anh.
Ngoài ra, Tiến sĩ Cass cũng đã phỏng vấn nhiều thanh niên chuyển giới, người lớn, cha mẹ của những đứa trẻ này, các nhóm vận động, nhà tâm lý học, bác sĩ nhi khoa và các bác sĩ lâm sàng liên quan, cả người Anh và quốc tế, mặc dù số lượng người được phỏng vấn không được tiết lộ. Tiến sĩ Cass cũng muốn theo dõi 9,000 bệnh nhân được giới thiệu đến Trung tâm Tavistock của Anh, nhưng không thể thực hiện điều đó do thiếu sự hợp tác từ tất cả các nơi trừ một phòng khám dành cho người lớn.
Đánh giá cho thấy không đủ bằng chứng thuyết phục chứng minh tính hiệu quả và lợi ích của các phương pháp điều trị xác định lại giới tính cho trẻ em. Ngoài ra, nhiều trẻ em trong số này mắc chứng tự kỷ và đều kèm theo các bệnh tâm thần thường bị che đậy bởi mô hình y tế hóa.
Do đó, Tiến sĩ Cass đã đưa ra lời khuyên về các giải pháp can thiệp tâm lý mang tính cảnh báo đồng thời cho trẻ tự do khám phá danh tính của bản thân.
Hiệp hội Y học Giới tính Dựa trên Bằng chứng (SEGM), một nhóm y tế ủng hộ nghiên cứu dựa trên bằng chứng về chăm sóc người chuyển giới, tuyên bố rằng đối với Vương quốc Anh, đánh giá này đã đánh dấu “sự kết thúc của kỷ nguyên áp dụng rộng rãi điều trị y tế cho những người trẻ tuổi cảm thấy đau khổ liên quan đến giới tính,” vốn được biết đến như là dịch vụ chăm sóc “khẳng định giới tính.”
Báo cáo cũng đề cập rằng trong khi việc y tế hóa bao gồm thuốc ngăn chặn tuổi dậy thì, hormone nữ tính hóa và phẫu thuật, được gọi là “Phác đồ điều trị của Hà Lan,” được phát minh ở Hà Lan vào những năm 1990, thì khái niệm “khẳng định giới tính” – thừa nhận bản dạng giới của trẻ em theo vẻ ngoài – thực sự có nguồn gốc từ Hoa Kỳ và sau đó lan rộng ra quốc tế.
Theo kết quả của bài đánh giá, trẻ em dưới 18 tuổi ở Anh sẽ không được điều trị bằng phác đồ trên nhưng được chăm sóc ở cấp độ tương tự như những thanh niên khác đang gặp khó khăn về sức khỏe tâm thần. Phần Lan và Thụy Điển cũng thực hiện những thay đổi tương tự vào năm 2023.
Các loại thuốc và hormone ngăn chặn tuổi dậy thì sẽ chỉ được cung cấp cho trẻ từ 16 tuổi trở lên trong bối cảnh các điều kiện nghiên cứu được kiểm soát. Vì vậy, sẽ khó thử nghiệm các phương pháp này trên trẻ vị thành niên.
Tiến sĩ Stephen Levine, giáo sư lâm sàng về tâm thần học tại Case Western Reserve University, cho biết, “Vì vậy, như báo cáo của Cass đã nêu rõ, họ có thể thiết kế một nghiên cứu, nhưng nghiên cứu này phải được một cơ quan lớn hơn có quyền quyết định về tính đạo đức chấp thuận.”
Những phát hiện và đề nghị hàng đầu
Báo cáo cho thấy, thật bất ngờ, hầu hết các hướng dẫn có ảnh hưởng hiện nay đều được xác định dựa trên sự đồng thuận của hội đồng quản trị thay vì khoa học.
Hầu hết các hướng dẫn hiện hành đều bị ảnh hưởng bởi hai tiêu chuẩn chăm sóc của Hoa Kỳ: Hiệp hội Chuyên nghiệp thế giới về chăm sóc sức khỏe người chuyển giới năm 2012 (WPATH) và Hiệp hội nội tiết năm 2009.
Cả hai đều dựa vào quy trình đồng thuận giữa các chuyên gia để quyết định phương pháp điều trị tốt nhất cho chứng phiền muộn giới và được xây dựng dựa trên lẫn nhau. Các thành viên của WPATH là nhà đồng tài trợ cho hướng dẫn của Hiệp hội Nội tiết. Các tiêu chuẩn chăm sóc năm 2012 của WPATH đã áp dụng các khuyến nghị dựa trên sự đồng thuận của Hiệp hội Nội tiết nhưng không đề cập đến dữ liệu tổng quan hệ thống của chính WPATH, vốn tìm thấy bằng chứng không thuyết phục về lợi ích của liệu pháp hormone.
Các hướng dẫn tiếp theo tham khảo các khuyến nghị từ những hướng dẫn này, từ đó đưa ra những gì chúng ta thấy ngày nay.
Tiến sĩ Cass Review không phải là việc “hủy bỏ quyền chăm sóc sức khỏe của người dân,” Tiến sĩ Cass đã viết trong lời tựa của bài đánh giá. “Đó là về cách nên chăm sóc sức khỏe như thế nào.”
Bài đánh giá đã trình bày những phát hiện và khuyến nghị sau đây.
1. Liệu pháp tâm lý được khuyến khích
Hiệu quả và rủi ro: Do báo cáo về các can thiệp ở trẻ em chuyển giới có chất lượng thấp và số lượng ít, bài đánh giá không thể đưa ra kết luận đúng đắn về hiệu quả của liệu pháp tâm lý.
Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy liệu pháp tâm lý có thể giúp giải quyết các tình trạng sức khỏe tâm thần, chẳng hạn như trầm cảm và lo âu, thường gặp ở thanh niên chuyển giới, và các giải pháp can thiệp bằng hormone thường làm lu mờ các liệu pháp này. Đánh giá nhấn mạnh rằng liệu pháp tâm lý không giống như liệu pháp chuyển đổi, vì không thể thay đổi nhận thức của trẻ em về con người chúng mà là khám phá nguyên nhân của những lo lắng và trải nghiệm [không tốt] và giúp giảm bớt đau khổ.
2. Ưu tiên chuyển đổi xã hội một phần
Hiệu quả và rủi ro: Các tổng quan hệ thống không cho thấy bằng chứng rõ ràng về tác động tích cực hay tiêu cực của quá trình chuyển đổi xã hội đối với sức khỏe tâm thần. Chuyển đổi xã hội thường đề cập đến việc một người chỉ thực hiện những thay đổi về mặt xã hội, bao gồm thay đổi kiểu tóc, quần áo, tên và xưng hô, thay vì những thay đổi về mặt y tế để sống như một giới tính khác.
Đánh giá lưu ý rằng nhiều trẻ em thoát khỏi chứng phiền muộn giới khi trưởng thành nhưng những em chuyển đổi xã hội thường chuyển đổi về mặt y tế, nghĩa là chúng tiếp tục mắc chứng phiền muộn giới.
Mặc dù chưa biết liệu chuyển đổi xã hội có góp phần gây ra chứng phiền muộn về giới hay không, các tác giả bài đánh giá đã suy đoán rằng chuyển đổi một phần có thể thuận lợi hơn và linh hoạt hơn để giúp các em khám phá và tự thể hiện bản dạng giới.
3. Không khuyến khích điều trị hormone ngoại trừ trong nghiên cứu
Hiệu quả và rủi ro: Đánh giá cho thấy không có sự cải thiện đáng kể nào về các triệu chứng phiền muộn giới hoặc sự hài lòng của cơ thể sau khi điều trị y tế. Mặc dù một số báo cáo cho thấy sự cải thiện tâm trạng trong thời gian ngắn khi bệnh nhân bắt đầu điều trị hormone nhưng mức độ cải thiện như vậy là rất nhỏ.
Điều trị hormone, đề cập đến việc sử dụng thuốc ngăn chặn tuổi dậy thì và hormone nữ tính hóa, không được khuyến khích cho trẻ vị thành niên do tác dụng của hormone là vĩnh viễn. Thay vào đó, trẻ em từ 16 tuổi trở lên có thể được đăng ký tham gia các nghiên cứu chất lượng cao về các phương pháp điều trị thử nghiệm.
Bằng chứng về tác động của việc ức chế tuổi dậy thì đối với sức khỏe tâm lý, sự phát triển nhận thức và xương cũng như nguy cơ chuyển hóa tim mạch hoặc khả năng sinh sản là không nhất quán và không đầy đủ.
Bằng chứng cũng không ủng hộ tuyên bố rằng điều trị hormone làm giảm nguy cơ tự tử.
Báo cáo không thảo luận về các khuyến nghị và thay đổi trong hướng dẫn về phẫu thuật xác định lại giới tính vì không giống như trẻ em ở Hoa Kỳ, trẻ vị thành niên ở Vương quốc Anh thường không thể trải qua những phẫu thuật này.
Một sự thay đổi đột ngột
Kể từ giữa những năm 2010, Trung tâm Tavistock của Anh, phòng khám dựa trên giới tính duy nhất được tài trợ công khai phục vụ trẻ em ở Anh, đã chứng kiến sự gia tăng đột ngột của số thanh niên chuyển giới, trong đó phần lớn không có dấu hiệu điển hình nào về chứng phiền muộn giới. Cũng có mối tương quan ngày càng tăng giữa chứng phiền muộn giới và các bệnh tâm thần khác đi kèm, bao gồm mắc chứng tự kỷ, trầm cảm, lo lắng và những trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu.
Điều tương tự cũng đã được quan sát thấy ở Hoa Kỳ.
Tiến sĩ Levine, một trong những chuyên gia đầu tiên làm việc với trẻ em và người lớn mắc chứng rối loạn giới tính và chuyển giới, cho biết, “Chúng ta cần phải hết sức cẩn thận vì có rất nhiều người mắc chứng tự kỷ muốn thay đổi giới tính của họ”.
Ông nói, “Đó là sự phủ nhận giới tính nam hoặc nữ và chúng ta cần hiểu động cơ của việc này.”
Tiến sĩ Levine tiếp tục, điều này không được thảo luận trong Cass Review vì báo cáo “muốn nói về khoa học. Nhưng khi bạn là một bác sĩ như tôi, chăm sóc từng bệnh nhân, đôi khi bạn bắt đầu hình thành [việc thắc mắc về] lý do tại sao một người muốn thoát khỏi nam tính hoặc thoát khỏi nữ tính. Và đó là một câu hỏi rất phù hợp với mọi bác sĩ và mọi gia đình.”
Bất đồng chính kiến và im lặng
Đánh giá đã nhận được phản hồi rất chia rẽ.
Các hiệp hội y tế khuyến nghị điều trị y tế phần lớn vẫn im lặng, với những người bất đồng chính kiến lên tiếng nhiều nhất là những người ủng hộ người chuyển giới.
Ngay sau khi công bố, một số người ủng hộ này đã tuyên bố trực tuyến rằng hai báo cáo của Cass đánh giá về thuốc ngăn chặn tuổi dậy thì và hormone nữ tính hóa đã loại trừ 98% trong số 103 nghiên cứu được gửi đi, chỉ xem 2% là có chất lượng cao. Những người khác cho rằng nhóm đánh giá rất nghiêm ngặt về những nghiên cứu mà họ cho phép, chỉ chấp nhận các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng.
Tiến sĩ Cass cho biết trong một cuộc phỏng vấn với BBC rằng tuyên bố trước đây là sai sự thật.
Bà nói, “Có khá nhiều [trong số 103 nghiên cứu] được xem là có chất lượng vừa phải và tất cả những nghiên cứu đó đều được đưa vào phân tích. Vì vậy, đánh giá bao gồm gần 60% các nghiên cứu.”
Nhà báo độc lập Benjamin Ryan cũng bác bỏ cả hai tuyên bố này trong một bài viết trên Substack. Ông viết trong tiêu đề, “Rõ ràng là nhiều người chưa bao giờ thèm đọc báo cáo.”
Về phía các tổ chức y tế giữ yên lặng, WPATH là tổ chức lớn duy nhất đưa ra tuyên bố truyền thông. Tuy nhiên, thông cáo báo chí không thể tìm thấy trên trang web của họ và chủ yếu được lan truyền qua ảnh chụp màn hình trên nền tảng X, trước đây gọi là Twitter.
WPATH tuyên bố: “Nền tảng của The Cass Report bắt nguồn từ tiền đề sai lầm rằng các lựa chọn thay thế chăm sóc phi y tế sẽ giúp hầu hết thanh thiếu niên bớt đau khổ hơn và dựa trên sự thiếu kiến thức cũng như kinh nghiệm làm việc với nhóm bệnh nhân này.”
Một bác sĩ lâm sàng của WPATH, một trong những người đầu tiên trợ giúp thanh niên điều trị y tế “khẳng định giới tính” ở Hoa Kỳ, nói với The Epoch Times rằng cô rất buồn và thất vọng trước phản hồi của WPATH.
Bác sĩ lâm sàng yêu cầu giấu tên cho biết, “Tôi cảm thấy như họ đang bị mắc kẹt trong những năm 2000. Họ vẫn có suy nghĩ rằng nếu ai đó gặp phải chứng phiền muộn về giới tính thì can thiệp y tế luôn là phương pháp điều trị được khuyến nghị đầu tiên.”
Khi phòng khám giới tính đầu tiên bắt đầu mở tại Hoa Kỳ, hầu hết trẻ em mà cô gặp đều là những trường hợp cực đoan, trong đó chứng phiền muộn giới tính và các vấn đề về sức khỏe tâm thần dường như có mối liên hệ rõ ràng với chứng không phù hợp giới tính của trẻ. Phần lớn, những đứa trẻ này đã cải thiện khi được điều trị y tế và sau khi được đánh giá thích hợp.
Tuy nhiên, nhân khẩu học của bệnh nhân đã thay đổi và các ca bệnh trở nên phức tạp hơn.
Cô nói, “Tôi nghĩ rằng thực lòng mà nói, nhiều người thậm chí không xem xét tài liệu và có lối suy nghĩ phản biện để xác định xem liệu đó có phải là điều mà chúng ta có thể xem xét một cách nghiêm túc hay không.”
“Tôi nghĩ rằng mọi người lo sợ những giải pháp can thiệp này tiếp tục bị cấm vì đó là những gì đang xảy ra ở [các bang bảo thủ ở] Hoa Kỳ, và báo cáo Cass này có thể đẩy mạnh ngọn lửa đó một chút.”
Tương lai không chắc chắn ở Hoa Kỳ
Cass Review lưu ý rằng Hoa Kỳ là lực lượng chính đẩy mạnh y tế hóa giới tính.
Các bác sĩ lâm sàng được phỏng vấn cho biết Hoa Kỳ không thể có gì đó giống như Cass Review vì từng tiểu bang đưa ra nhiều quyết định về chăm sóc sức khỏe. Ngược lại, chăm sóc sức khỏe được tập trung ở Anh.
Trong khi các hội đồng quốc gia và hiệp hội bác sĩ lâm sàng dường như ủng hộ mô hình xác định lại giới tính trên cơ sở đồng thuận, thì 23 tiểu bang đã thông qua dự luật cấm điều trị hormone cho trẻ em, mặc dù hiện tại chỉ có 18 dự luật có hiệu lực.
Bất chấp sự khác biệt về chính trị và chính phủ, nhân khẩu học của bệnh nhân rất giống nhau ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Do đó, theo bác sĩ lâm sàng của WPATH, Cass Review nên phù hợp với Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, do sự phân chia này, nên rất khó để có thể thảo luận hiệu quả. Nhà tâm lý học nghiên cứu và lâm sàng Amy Tishelman, trước đây là giám đốc nghiên cứu lâm sàng tại Dịch vụ đa chuyên khoa về giới của Bệnh viện Nhi Boston và là tác giả chính của Tiêu chuẩn chăm sóc 8 dành cho trẻ em của WPATH, cho biết các bác sĩ lâm sàng và nhà nghiên cứu còn dè dặt về tình trạng y học chuyển giới ở Hoa Kỳ có thể ngần ngại công khai tuyên bố chính thức vì sợ rằng lời nói của họ sẽ được sử dụng để đẩy mạnh các đạo luật mà họ không đồng ý.
Mặt khác, Tiến sĩ Paul McHugh, một nhà phê bình lâu năm về y học chuyển đổi giới tính, bác sĩ tâm thần và giáo sư tâm thần học nổi tiếng của trường đại học tại Trường Y thuộc Đại học Johns Hopkins, tin rằng việc trợ giúp và vận động cho việc chăm sóc chuyển đổi giới tính phần nào đã trở thành một hiện tượng hoặc cơn sốt xã hội.
Ông nói, “Mỹ có xu hướng gặp phải điều này. Chúng ta rất cố gắng chứng tỏ rằng chúng ta đang giải thoát mọi người khỏi sự cố chấp và ngược đãi mà [chúng ta] đã phải chịu.”
Do đó, “Mọi người đang có phản ứng nóng vội bởi vì nếu có bất cứ điều gì dù chỉ là hơi không đồng thuận với việc giới trẻ đang chưa xác định được giới tính, thì sẽ bị một số người cực đoan xem là kỳ thị,” bác sĩ lâm sàng của WPATH nói thêm.
“Một số người ở Mỹ nói những câu như, Bọn trẻ biết chúng là ai; chỉ cần chấp nhận những gì chúng nói về giới tính của bản thân,” nhà tâm lý học Erica Anderson, người chuyên điều trị cho những thanh niên mơ hồ về giới tính, cho biết. “Tôi muốn phê bình một số đồng nghiệp là có vẻ như họ đã quên hết những gì đã học trước khi bắt đầu làm việc về vấn đề giới tính với giới trẻ.”