Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng ở Nam Á
Trung Quốc tập trung cô lập Ấn Độ
Đối thủ chính của Trung Quốc ở Nam Á là Ấn Độ. Bắc Kinh đang tập trung toàn lực vào việc giảm ảnh hưởng của New Delhi trong khu vực này.
Hai nước đã xảy ra một số cuộc giao tranh quân sự gần đây và cả cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1962 trên lãnh thổ tranh chấp ở Dãy núi Himalaya và Bảy tiểu bang Kết nghĩa ở đông bắc Ấn Độ (Arunachal Pradesh, Assam, Meghalaya, Manipur, Mizoram, Nagaland, và Tripura).
Một khu vực mà phần lớn thế giới chưa biết đến, là Hành lang Siliguri, có biệt danh là “Cổ Gà”, kết nối có tính chiến lược với Bảy tiểu bang Kết nghĩa bị cô lập với phần còn lại của Ấn Độ, thông qua dịch vụ đường sắt duy nhất trong khu vực. Trong năm 1975, Sikkim, một tiểu bang gần như độc lập cho đến lúc đó, đã gia nhập với phần còn lại của Ấn Độ. Bảy tiểu bang Kết nghĩa tiếp giáp ba mặt rưỡi với Bangladesh, Miến Điện (Myanmar), Trung Quốc, Bhutan, và Nepal – hai quốc gia sau cùng này đang bị Trung Quốc thực sự kiểm soát.
Ở phía biên giới của Trung Quốc, Thung lũng Chumbi của Trung Quốc là tuyến đầu trong cuộc xung đột giữa những người làm đường và binh sĩ Trung Quốc với quân đội Ấn Độ. Lãnh đạo Trung Cộng Tập Cận Bình mong muốn sáp nhập Bảy tiểu bang Kết nghĩa vào Trung Quốc, để cuối cùng đạt thêm được một tuyến đường thương mại quan trọng khác, từ Vịnh Bengal tới Ấn Độ Dương. Do đó, đây là nguồn gốc chính của tranh chấp biên giới Trung Quốc–Ấn Độ.
Các cuộc đàm phán quân sự gần đây giữa hai bên đã kết thúc trong bế tắc, và cả hai bên đang náu mình cho một mùa đông căng thẳng tiếp diễn trong khu vực này, khi tờ Hoàn Cầu [Global Times], một phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc, ca ngợi về hậu cần vượt trội của Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) trong khu vực.
Nằm trong một chiến lược nhằm bao vây và cô lập Ấn Độ, từ lâu Trung Quốc đã tìm cách thống trị khu vực Ấn Độ Dương–Thái Bình Dương, cả về kinh tế và địa chính trị. Trung Quốc tìm cách phát triển một thị trường kinh tế hợp nhất, bao gồm “tất cả các quốc gia Á–Âu,” chú trọng vào Nam và Trung Á. Yếu tố không thể thiếu đối với hệ thống lấy Trung Quốc làm trung tâm là việc phát triển của một loạt các hành lang trên bộ, để tạo điều kiện cho thương mại đường bộ, bao gồm Hành lang Trung Quốc–Trung Á–Tây Á, chạy từ Tây Trung Quốc đến Thổ Nhĩ Kỳ. Được ví như “Rồng Nhện”, Trung Quốc cũng tập trung phát triển một tuyến đường bộ xuyên Pakistan đến Vịnh Oman.
Trung Quốc đã duy trì một mối quan hệ lâu dài với Pakistan. Bắc Kinh đang đầu tư hàng tỷ USD trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) để phát triển Hành lang Kinh tế Trung Quốc–Pakistan – bao gồm các tuyến đường cao tốc, đường sắt, và đường ống dẫn – từ Cảng Gwadar trên Ấn Độ Dương đến Tân Cương. Hành lang này sẽ là vành đai vận chuyển dầu khí từ Trung Đông, bao gồm cả dầu từ Iran, đến Trung Quốc. Theo một bản tin của Epoch Times, Trung Quốc cũng đang “xây dựng cơ sở hạ tầng cho Pakistan trên biên giới tranh chấp giữa Ấn Độ–Pakistan, bên trong khu vực Kashmir do Pakistan kiểm soát.”
Một mục tiêu địa chính trị–quân sự quan trọng của Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương–Thái Bình Dương là mở rộng các căn cứ của Hải quân PLA/PLA trên khắp khu vực để chống lại sự thống trị địa chính trị lâu năm của Hoa Kỳ ở đó. Việc thiết lập các căn cứ của PLA được sử dụng để đe dọa các nước thuộc khu vực Ấn Độ Dương–Thái Bình Dương khiến họ phải có các quan điểm trung lập hơn (nếu không phải là hoàn toàn thân Trung Quốc) trong các vấn đề địa chính trị. Chiến lược này đã hoạt động hiệu quả với đồng minh chủ chốt là Pakistan tại Cảng Gwadar.
Chiến lược này cũng đang được sử dụng ở những nơi khác trong khu vực. Tổ chức Bảo vệ các Nền Dân chủ đưa tin: “Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) đã có những bước tiến quan trọng trong việc chiếm các căn cứ mới ở Campuchia, Tanzania, và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, cùng các căn cứ khác… Việc [Trung Quốc] nỗ lực có một căn cứ ở Kiribati, gợi nhớ một cách lạ lùng đến những cố gắng của Bắc Kinh nhằm đạt được căn cứ quân sự đầu tiên ở ngoại quốc (và duy nhất hiện nay) ở Djibouti vào năm 2017.” Lưu ý: Kiribati nằm trong tầm có thể tấn công tới Hawaii. Bắc Kinh không chỉ tìm cách đe dọa các quốc gia nhỏ hơn mà còn với cả “địch thủ chính” của họ, đó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Những người cộng sản Trung Quốc (Chicoms) đã không ngừng tập trung vào việc cải thiện mối quan hệ với Iran kể từ những năm 1960. Các phương pháp của họ bao gồm ngoại giao vào thời điểm thích hợp, hối lộ, và đầu tư chiến lược trong nhiều năm. Sự kiên trì của Trung Cộng đã được đền đáp hậu hĩnh khi hai quốc gia này đang trên đà phát triển một mối quan hệ chiến lược. Theo một báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, Bắc Kinh và Tehran gần đây đã ký một thỏa thuận liên quan đến “khoản đầu tư 400 tỷ USD của Trung Quốc vào Iran có thời hạn 25 năm để đổi lại việc có được giá xuất cảng xăng dầu thấp hơn từ Iran.” Cũng có một yếu tố quân sự trong thỏa thuận đó. Khi hai nước trao đổi quân nhân, Trung Cộng sẽ được phép khai triển/đồn trú 5,000 binh sĩ PLA ở Iran, và tăng cường hợp tác hàng hải giữa hai nước. Cuối cùng, thỏa thuận này cho phép Hải quân PLA tiếp cận cảng Chabahar của Iran, một lối đi thay thế vào Vịnh Oman, bên cạnh Cảng Gwadar.
Sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Cộng ở Iran có thể có một tác động lớn đến các hoạt động của Iran trên khắp Trung Đông. Iran đã dính líu rất nhiều vào việc tài trợ cho Hezbollah, Hamas, và Thánh chiến Hồi giáo, cũng như cung cấp các nguồn lực quân sự của Lực lượng Vệ binh Cách mạng Iran cho các đồng minh và các lực lượng được ủy nhiệm của mình, như một phương tiện để phá hoại và chế ngự các quốc gia Ả Rập nhỏ hơn ở Trung Đông theo thời gian. Việc Trung Cộng mua dầu của Iran sẽ cấp nguồn tài chính cho tất cả các hoạt động này, và việc Trung Cộng gây ảnh hưởng chính trị ngày càng tăng ở Tehran có thể khiến cán cân quyền lực ở Trung Đông lệch khỏi Hoa Kỳ và nghiêng về phía Trung Quốc.
Người ta đã tin rằng Bắc Kinh thực sự đang tổ chức một liên minh ba bên với Iran và Pakistan để kiểm soát và gây ảnh hưởng đến các vấn đề ở Tây Nam Á và Nam Á. Các hành động trên dường như xác nhận rằng một liên minh thực chất đã có hiệu lực.
Bổ sung Afghanistan vào mạng lưới. Trung Cộng đã đạt được một thắng lợi lớn về địa chính trị khi Hoa Kỳ phó mặc đất nước này cho Taliban hồi tháng Tám vừa qua. Khi làm vậy, Hoa Kỳ cũng từ bỏ các mỏ khoáng sản phong phú gồm đồng, vàng, bauxite, chì, kẽm, than, quặng sắt, và các nguyên tố đất hiếm của Afghanistan cho Chicoms. Trong nhiều năm qua, Trung Cộng đã không ngừng nỗ lực để bí mật tác động đến triển vọng dài hạn của họ ở Afghanistan. Nhiều người ở phương Tây không biết rằng, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu tư lớn nhất của Afghanistan trước khi chính phủ Tổng thống Biden tháo chạy. Chicoms có hợp đồng thuê mỏ đồng Aynak trong 30 năm trị giá 3 tỷ USD và hiện họ đang đặt mục tiêu khai thác lithium. Lithium được sử dụng để sản xuất pin lithium-ion, một thành phần chính của cơ sở sản xuất công nghệ xanh đang phát triển nhanh ở Trung Quốc. Đầu tư của Trung Quốc vào các tuyến đường bộ và đường sắt sẽ hoàn thành việc bổ sung Afghanistan vào mạng lưới lấy ‘Rồng – Nhện’ làm trung tâm, như một phần mở rộng đối với Hành lang Kinh tế Trung Quốc – Pakistan.
Chicoms cũng đang nhắm đến Sri Lanka với các khoản đầu tư liên quan đến BRI tại Cảng Container Quốc tế Colombo (CICT) và cảng phía nam Hambantota. Chính sách ngoại giao bẫy nợ thông thường của Trung Cộng có thể hiệu quả hơn ở Sri Lanka, vì nước này duy trì các mức nợ cao kèm theo một cán cân thương mại kém, khiến Sri Lanka khó trả được các khoản vay cho Trung Quốc hơn. Thêm vào đó, Chicom khăng khăng đòi nhập cảng lao động Trung Quốc để “thuận tiện” cho việc hoàn thành các dự án, thay vì sử dụng lao động địa phương. Người ta suy đoán rằng cuối cùng thì Bắc Kinh sẽ giành được một số quyền kiểm soát đối với Hambantota, để cho phép các chiến hạm của Hải quân PLA tiếp cận cảng.
Kết luận
Các hành vi địa chính trị và kinh tế của Trung Quốc Cộng sản ở Nam Á rõ ràng là nhằm làm giảm ảnh hưởng của Ấn Độ trong khu vực. Mạng lưới của Rồng – Nhện tiếp tục mở rộng và thu hút một số quốc gia ở ngoại biên của Ấn Độ. Ngoài ra, Trung Cộng tìm cách giảm bớt sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ trong khu vực này, đặc biệt là ở Trung Đông. Như vậy, Ấn Độ và Hoa Kỳ tự nhiên trở thành các đồng minh cùng có chung một địch thủ.
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
Ông Stu Cvrk là một thuyền trưởng đã nghỉ hưu sau 30 năm phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ với nhiều vị trí chính quy và dự bị khác nhau, có kinh nghiệm đáng kể về khu vực Trung Đông và Tây Thái Bình Dương.