Thử viết Việt nam văn học sử XVII
Tiếp theo của phần XVI
Tiết năm: Thiền – Lão
Ông là một vị thiền-sư là ở chùa Trừng minh trên ngọn núi Thiên phúc, huyện Tiên-du. Người ta không rõ tên, họ là gì, nên chỉ kêu là Thiền lão thiền-sư.
Ban đầu, tham đạo nơi sư Đa-Bảo chùa Kiến-sơ, Ông lĩnh ngộ được những điều tâm yếu. Rồi, ông cầm gậy tích tụ ở chùa Từ-sơn, gây ở đương thời một phong-trào thiền học: có hàng vài nghìn đệ tử đến thụ giáo, làm cho cảnh chùa đó nổi tiếng là một nơi tốt tươi, rực rỡ trong Tùng-lâm.
Khoảng năm Thông-thụy (1034-1038), chính vua Lý Thái-Tông thường đến chơi chùa đó và nhờ Ông, ngài ngộ được yếu-chỉ đạo Phật.
Ông có những câu khoáng đạt và thanh-cao như:
Chỉ biết ngày tháng này,
Nào hay xuân thu cũ (Dịch)
và:
Tre biếc,cúc vàng,quên ngoại cảnh;
Trăng trong, mây trắng lộ toàn chân. (Dịch)
Mấy câu đó mộc-mạc mà thâm-trầm, bóng-bảy mà thanh thoát, tả rõ được tâm-tính con người tự-tại tiêu-dao. Tiếc rằng ngoài mấy vần ấy ta không được thấy thêm gì nữa !
Khi vua Lý Thái-Tông sắp sai sử-giả đến chùa đón ông vào cung để làm cố-vấn thì ông đã tịch từ trước rồi. Vua thương tiếc lắm, có làm bài thơ đề viếng ông.
Tiết sáu: Cứu chỉ
Họ Đàm, người làng Phù đàm, huyện Chu-minh, từ bé đã có tính ham học, vì vậy các sách nho, thích, ông thông suốt cả.
Một bữa, sau một cơn tinh thần khủng-hoảng, ông thấy mình cần phải xoay theo Phật học thì mới tìm được phương pháp giải-thoát. Vì ông tin rằng đạo Phật là một con đường dẫn người ta đến bực xóa hết có, không, rũ sạch sinh, tử nếu mình biết trì giới, tính tiến, dốc chỉ tu hành.
Nghĩ vậy, ông bạn đến tham đạo nơi Đinh hương trưởng lão ở chùa Cảm ứng núi Ba sơn. Nhân khi vấn đáp, ông hiệu được cái ý chỉ cứu cánh của nhà Thiền. Ông đặt hiệu là Cửu-Chi.
Trong vòng sáu năm, tu trì khổ hạnh ở chùa Quang minh núi Tiên du, ông không hề bước xuống khỏi núi.
Cài tiếng diễn hóa ngày một lẫy lừng thấu đến tai vua Lý Thái-Tông, song ông không chịu dời bỏ chim họa trên núi, mặc dầu nhà vua vời đến ba lần.
Vi hâm mộ ông, vua Lý Thánh thấp đến chơi tận chùa vài ba lượt để thăm hỏi và yên ủi nhà cao sĩ đó.
Trước cái thái độ cao khiết ấy của ông, Lương Văn Nhậm, thái sư đời Lý, rất kính trọng.
Khoảng năm Long thụy thái bình (1054-1058) đời vua Lý Thánh, ông bất đắc dĩ phải hạ sơn, xuống trụ trì ngôi chùa Dương Đạo Gia.
Về mặt triết học, ông theo chủ nghĩa duy tâm của nhà Phật. Ông cho rằng cái tính, cái tâm là gốc của hết thảy pháp-môn và pháp tính. Khi đã biết rõ tâm và pháp là một rồi, thì mới rũ được hết sạch những nỗi phiền não, bối-rối. vướng-víu… Sở dĩ biết và thấy được hết đạo pháp là vì lầy nhân-duyên làm gốc, chân chính làm tổn-chỉ…
Lối năm Chương-thánh gia khánh (1059-1065), trước khi từ trần, ông có bài này:
Biết rõ thân tâm vốn ngưng tịch
Thần-thông biến-hóa hiện mọi tướng:
Hữu vi, vô vi từ đấy ra,
Biết bao thế-giới thật khôn lượng!
Dầu vậy, đầy-dẫy cõi hư-không,
Xét ra nào có chi hình-trạng ?
Nỗi ấy nghìn xưa vẫn khó thay
Chốn chốn, nơi nơi thường tỏ sáng… (Dịch)
Tiết bảy Lý thái Tôn (999 -1054)
Đã được hưởng phần hương hỏa tinh-thần của vua Lý Thái – Tổ, lại sinh vào đời thịnh-vượng trị bình, vua Lý Thái-Tông là người thông minh, anh võ, có tính trầm tĩnh, biết liệu sự-cơ
Từ bé được vua cha gieo cho cái tư-tưởng “thân dân”, ngài phải ra ở riêng một cái nhà, tên gọi Long-đức cung, làm tại phía ngoài đô-thành đề sớm hôm được mục-kích cuộc sinh hoạt vất-vả, nhọc-nhằn của quần-chúng. Với đám bình dân, ngài đã sống chung trong một bầu không khí quê-mùa, thể nào tư-tưởng ngài cũng bị kích-thích và thay đổi theo hoàn-cảnh.
Quả nhiên, khi lên nối ngôi, vua Lý Thái-Tông rất sốt-sắng với công việc lao-động: Chính ngài cày ruộng tịch điền để khuyến-khích nghề nông; mặc đồ hàng tẩm do cung-nhân dệt để chấn-hưng nội-hóa; cũng chính ngài chế ra xe thái-bình để mở mang kỹ-nghệ nước nhà,
(Còn nữa).
HÒA BẰNG