Mấy câu tục ngữ, ca dao về ngày kỵ vua Lê Thái Tổ
Trong quyển Nghệ-an ký phần thứ nhất, mục Thiên-chí, nói về thời tiết xứ Nghệ, Bùi-dương-Lịch có chép một đoạn như sau:
“Bát nguyệt, nhị thập, nhị thập nhất nhất, thưởng hữu vũ, thị nhất, Lê-Thái-tổ Cao-hoàng-đế kỵ thì, cố vi chi Thái-tổ “ kỵ-thì vũ”.
(Ngày 20, ngày 21 tháng tám, thường hay mura. Vì ngày ấy là ngày kỵ vua Thái-tổ nhà Lê, nên người ta hay gọi là mưa ngày mưa Thái-tổ).
Hiện nay ở xứ Nghệ còn có mấy câu ca dao có nói đến ngày giỗ vua Lê.
1) Ham mốt Lê-Lai, hăm hai Lê-Lợi.
Câu này ngày nay người ta thường nhắc lại để nói những đám kỵ-lạp hoặc tế-Tự dập-dồn đến phải lo lắng, bận-bịu hoặc dọn dẹp linh-đình.
2) Hăm mốt giỗ cha, hăm ba gỗ con.
“Con” đây là vua Thái-tôn. Số là ngày hai mươi ba là lễ tiên-thường ngày giỗ vua Thái-tôn. Bài bia Mục lăng (1) do Nguyễn-bá-Ký soạn cũng chép rằng:
“Bát nguyệt nhị thập tứ nhật, Thái-tôn hoàng-đế đông tuần, tồ vu ngoại”
(Ngày hai mươi bốn, tháng tảm, vua Thái-tôn đi tuần về miền đông, mất ở ngoài).
Cũng như câu trên, ngoài ý nghĩa quốc tế (2) của ngày một ông vua mất, câu này hiện nay người ta thường nhắc lại để
kể cái cảnh đau-đớn của một nhà bị tang-tóc chập-chùng.
3) Trời mưa Thái-lô, Thái-tông,
Con dắt, con bế, con bồng, con mang.
Câu ca này là kề sự khó-nhọc của một người mẹ khổ-sở vì phải nuôi con đông, và phải làm ăn vất-vả. Có lẽ lời Bùi-dương-Lịch dẫn ra trên đây là bởi câu ca này mà ra, “ Mưa Thái-tổ, Thái-tông”: chữ Thái-tổ, Thái-tông ở đây mất hẳn ý-nghĩa hiệu vua và thành ra một hình dung tự (adjectif) để gọi những trận mưa dầm đặc-biệt trong địa-phương. Ấy cũng là một phương-pháp ghép chữ thông-thường và giản-dị.
Đem những hiện-tượng giới đất mà so-sánh với thân-thể danh-nhân, hoặc ghi nhớ những ký-ức của họ, không phải là một điều lạ lùng của trí tưởng-tượng quần-chúng.
Mấy câu ca trên này đủ chứng chỉ cho ta biết dân xứ Nghệ-an đối với triều Lê vẫn có một mối cảm-tình sâu xa.
SÙNG THANH
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
(1) Lăng vua Lê Nhân-tôn.