Lê Tần: Vị dũng tướng Việt Nam đầu tiên đại chiến với quân Mông Cổ (Kỳ cuối)
Khí tiết thanh cao, xứng bậc Nho tướng hiền thần
Ngoài võ trong văn, thầy dạy cho Thái Tử
Tháng giêng năm 1258, Trần Thái Tông định công phong tước, phong Lê Tần làm Ngự sử đại phu, lại đem Chiêu Thánh công chúa gả cho. Vua Thái Tông nói: “Trẫm không có khanh thì đâu có ngày nay. Khanh hãy cố gắng để cùng được trọn vẹn về sau.“ (Đại Việt sử ký toàn thư)
Đến tháng 12 năm 1274, vua Thánh Tông phong ông làm Thiếu sư, kiêm Trừ cung giáo thụ, tức là thầy học của Thái tử Trần Khâm. Năm năm sau đó, Thái tử lên ngôi vua. Đó là Trần Nhân Tông (1258–1308), vị vua văn võ toàn tài đã lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ thắng lợi sau này. Đức độ và tài năng của vua Trần Nhân Tông có được là nhờ công dạy dỗ của người thầy Lê Tần.
Sử gia Ngô Sĩ Liên đã nhận định: “Lê Phụ Trần dũng lược đứng đầu ba quân, một mình một ngựa xông pha trong lúc gian nguy, mà tài văn học của ông đủ để dạy bảo Thái tử.“
Hậu duệ hào hùng, rạng danh tiên tổ
Do có công lớn trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất (1258), vua Trần Thái Tông đem công chúa Chiêu Thánh (tức Lý Chiêu Hoàng) gả cho Lê Phụ Trần. Đây vừa là đặc ân, đồng thời cũng vừa là một việc gây nhiều tranh cãi cho đời sau – vì công chúa Chiêu Thánh là hoàng hậu cũ của vua Trần Thái Tông.
Có thể nói vua Trần Thái Tông một đời anh minh nhưng riêng quyết định này lại có vẻ không dễ cho người đời lý giải. Đối với những người khác, việc này có lẽ là điều sỉ nhục. Nhưng Lê Tần vẫn không oán không hối, một lòng một dạ trọn nghĩa tào khang với công chúa Chiêu Thánh.
Lý Chiêu Hoàng bị truất ngôi hoàng hậu ở tuổi 19 sau 12 năm chung sống với Trần Thái Tông, trở lại với danh vị công chúa do không có con với Trần Thái Tông. Và hơn 20 năm sau, cuộc hôn nhân cưỡng ép này lại đem đến cho Lý Chiêu Hoàng niềm an ủi cuối đời; đó là hạnh phúc được làm mẹ. Dù lớn tuổi, bà vẫn sinh được hai người con cho Lê Phụ Trần, con gái sau được phong Ứng Thụy công chúa, con trai là Tông, cũng được phong hầu. Các nhà sử học cho rằng, rất có thể vị hầu tước tên Tông đó chính là Trần Bình Trọng.
Năm ấy, Chiêu Thánh đã ngoài 40 tuổi nhưng tương truyền nhan sắc vẫn còn rất mặn mà. Sử sách đã bàn nhiều về mối nhân duyên hy hữu của một đại tướng quân và vị nữ vương cuối cùng của triều Lý. Chấp nhận ân sủng đặc biệt một cách thuận hòa như vậy càng chứng tỏ Lê Phụ Trần là bậc chính nhân quân tử, biết giữ phép tắc, nghi lễ triều chính, đạo vua tôi, nề nếp gia phong.
Ngoài một đời thanh liêm, gương mẫu, cống hiến hết lòng cho quốc gia, Lê Tần còn để lại cho đời một người con mà sau này tuy mất sớm, nhưng lưu danh sử sách không kém gì ông. Đó chính là Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng. Thân thế của Trần Bình Trọng trong sử sách không ghi rõ cha mẹ, chỉ nói ông vốn họ Lê, dòng dõi vua Lê Đại Hành. Tuy nhiên, các nhà sử học cho rằng ông chính là con trai của tướng Lê Tần và công chúa Lý Chiêu Hoàng, vì thân thế của Lê Tần cũng ghi là “Dòng dõi vua Lê Đại Hành” giống như Trần Bình Trọng.
Mặt khác, Lê Tần cũng được vua Trần phong tước Bảo Văn hầu. Ở thời Trần, chữ đầu tiên trong tước hiệu có thể cho biết vị quý tộc đó xuất thân từ gia đình nào. Chẳng hạn, các vị vương gia con của vua Thái Tông đều có chữ đầu là Chiêu (Chiêu Minh vương, Chiêu Văn vương, Chiêu Quốc vương…), các vị vương gia con cháu của Trần Liễu đều có chữ Hưng (Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương, Hưng Vũ vương…). Trần Bình Trọng có tước hiệu là Bảo Nghĩa hầu, trong khi tước hiệu của Lê Tần là Bảo Văn hầu.
Mặt khác, Trần Bình Trọng vốn gốc họ Lê chứ không phải trong vương thất nhà Trần. Người ngoại tộc muốn được phong hầu phải có công lao cực lớn. Trần Bình Trọng mới ít tuổi, trước trận Thiên Mạc thì chưa thấy có công lao to lớn nào được chép lại mà đã là hầu tước, lại mang họ vua; chỉ có thể vì ông có người cha được phong hầu và ban quốc tính. Ở thế hệ cha của Trần Bình Trọng, nào có nhân vật họ Lê – dòng dõi Lê Đại Hành – nào khác được ban quốc tính và phong hầu, ngoài Lê Tần?
Mặt khác, Lý Chiêu Hoàng được gả cho Lê Tần vào năm 1258, trong khi Trần Bình Trọng sinh năm 1259, rất phù hợp. Trần Bình Trọng trong trận chiến bên bờ Thiên Mạc đã chiến đấu đến người cuối cùng, cầm chân quân giặc để triều đình rút lui an toàn. Câu nói của ông lẫm liệt trước quân thù vẫn còn vọng lại đến ngàn năm: “Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc”. Quả thật là hổ phụ sinh hổ tử vậy.
Lời kết
Chiến thắng của nhà Trần trước quân Mông Cổ là chiến thắng của chính nghĩa, là tuân theo ý Trời mà bảo tồn các giá trị văn hóa Thần truyền. Triều nhà Trần là một triều đại oai hùng nhất trong lịch sử Việt Nam và cả thế giới, ghi dấu sự tồn tại của mình bằng 3 lần chiến thắng chống quân Nguyên Mông ngay tại thời điểm toàn thịnh của nhà Nguyên.
Đây là một triều đại rất đặc biệt khi suy tôn Phật giáo trở thành quốc giáo (cả vua đến dân đều đi tu), nhưng lại rất tôn trọng và dùng nguyên lý Nho gia để trị nước. Chính đặc điểm này đã khiến nhà Trần trở thành mảnh “đất lành” của rất nhiều tướng lĩnh cũng như các nhân tài về văn hóa khi nhà Tống sắp sụp đổ ở bên kia biên giới. Điều này đã giúp nhà Trần trở thành cái nôi lưu giữ giá trị văn hóa cổ truyền phương Đông cuối cùng.
Trời cao muốn bảo toàn nước Việt để lưu lại những giá trị văn hóa về sau, nên đã khiến vô số anh hùng, tướng tài, và quân chủ vĩ đại xuất hiện vào quốc gia “nhỏ như nắm tay” này (trích lời vua Trần) để làm nên công trạng lưu danh sử sách. Một quốc gia mà từ vua đến dân đều chú trọng đạo đức, sống lương thiện thì sẽ giàu mạnh và được Trời che chở, cho dù phải đối mặt với kẻ thù mạnh nhất.
Bài này chỉ viết về một vị tướng quân nhưng cũng thể hiện đặc điểm của một thời đại với những con người đạo đức chính nghĩa, chiến thắng oanh liệt kẻ bạo tàn. Một người sống đạo đức sẽ đem lại cho bản thân cuộc sống hạnh phúc, cả quốc gia sống đạo đức sẽ cùng nhau tạo nên Thần tích. Cả 3 lần chiến thắng quân Nguyên Mông không phải là Thần tích sao?