Chụp nhũ ảnh tìm ung thư sớm cho phụ nữ ở độ tuổi 40 có đem lại lợi ích?
Trong một nghiên cứu được công bố trên tạp chí The Lancet Oncology, các nhà khoa học đã phân tích tính hiệu quả của việc tầm soát ung thư vú tại Anh quốc. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng chụp nhũ ảnh bắt đầu ở tuổi 40 hoặc 41 – thay vì ở độ tuổi 50 được khuyến nghị bởi Dịch Vụ Y Tế Quốc Gia Anh Quốc (NHS) – có liên quan đến việc giảm tỷ lệ tử vong do ung thư vú.
Các chuyên gia khác nhận thấy dữ liệu từ nghiên cứu này không có sự khác biệt về khía cạnh số liệu thống kê và thậm chí chính các nhà nghiên cứu của dự án này cũng cho biết là “mức giảm tuyệt đối vẫn được giữ nguyên không đổi”. Họ cũng thừa nhận rằng “sau hơn 10 năm theo dõi, không quan sát thấy có sự giảm đáng kể nào” và “nhìn chung, không có sự khác biệt đáng kể nào” về số ca tử vong do ung thư vú – đúng như lời những người chỉ trích họ đã nói.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, 73% phụ nữ trên 45 tuổi đã được chụp nhũ ảnh trong vòng hai năm qua. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ phần trăm là con số áp đảo, với 61.91 triệu phụ nữ từ 40–70 tuổi vào tháng 7/2019.
Giả sử một phụ nữ ngừng chụp nhũ ảnh ở tuổi 70, có thể có 45.19 triệu phụ nữ đã chụp nhũ ảnh trong hai năm qua. Nếu tính chi phí trung bình của một lần chụp nhũ ảnh là 100 USD, thì tổng doanh thu có thể đem về gần 4.5 tỷ USD. Mặc dù phần chi phí bạn phải tự trả có thể không đến 100 USD cho mỗi lần kiểm tra, nhưng cũng phải có ai đó trả chi phí này.
Đây có thể là lời giải thích cho việc tại sao phụ nữ vẫn tiếp tục được khuyên nên chụp nhũ ảnh sàng lọc khối u ở vú mặc dù thiếu bằng chứng cho thấy những xét nghiệm này có thể làm giảm tỷ lệ tử vong; ngược lại trên thực tế còn có bằng chứng cho thấy việc kiểm tra quá thường xuyên có thể gây hại.
Dữ liệu cho thấy tầm soát ở phụ nữ không có triệu chứng không cứu sống được ai
Phản hồi thứ ba về bài báo nghiên cứu này, cũng được xuất bản trên BMJ, được viết bởi Hazel Thornton, giáo sư thỉnh giảng danh dự, Khoa khoa học sức khỏe Đại học Leicester. Trong đó, bà cũng nhận thấy các số liệu thống kê không hỗ trợ kết luận. Bà là một nhà phê bình lâu năm về việc tầm soát quá mức và giải thích lý do trước Ủy ban Y tế Hạ viện Vương quốc Anh về các dịch vụ tầm soát ung thư vú với tư cách là nhân chứng vào năm 1995.
Bà cho rằng Chương trình tầm soát ung thư vú của NHS là “một công việc tốn kém cho một nhóm công chúng không có triệu chứng… tạo ra chấn thương về tâm lý và thể chất. Chương trình này chỉ tập trung vào một số phụ nữ được hưởng lợi, hay nói cách khác, là những người được cứu sống mà bỏ qua hàng trăm phụ nữ đã phải trải qua quá trình này với tổn hại tâm lý. Tôi thấy là nó mất cân bằng, mất cân đối, và cần phải xem xét lại trong thời điểm hiện tại.”
Vào năm 2014, BMJ đã công bố kết quả theo dõi 25 năm từ Nghiên cứu sàng lọc ung thư vú Quốc gia Canada, trong đó các nhà nghiên cứu phát hiện 22% các ca ung thư vú được phát hiện đã bị chẩn đoán quá mức.
Họ kết luận: “Chụp nhũ ảnh hàng năm ở phụ nữ 40–59 tuổi không làm giảm tỷ lệ tử vong do ung thư vú, so với việc khám sức khỏe hoặc chăm sóc thông thường khi liệu pháp bổ trợ cho ung thư vú được cung cấp miễn phí.”
Trong một đánh giá của Cochrane về tài liệu phân tích hiệu quả của chụp nhũ ảnh tầm soát ung thư vú, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy 8 thử nghiệm đạt các tiêu chí đánh giá, bao gồm 600,000 phụ nữ từ 39–74 tuổi. Sau khi phân tích dữ liệu, họ phát hiện ra rằng – như bà Thornton đã chứng minh – cứ 2,000 phụ nữ được thực hiện tầm soát trên 10 năm thì có một người tránh được tử vong vì ung thư vú, và 10 người sẽ bị điều trị một cách không cần thiết.
Ngoài ra, hơn 200 phụ nữ sẽ phải chịu đựng sự dày vò về mặt tâm lý cũng như cảm giác bất trong nhiều năm sau khi nhận được kết quả dương tính giả.
Chẩn đoán quá mức, điều trị quá mức và phơi nhiễm tia X
Năm 2012, Tạp chí New England Journal of Medicine đã xuất bản một bài báo nghiên cứu của hai nhà khoa học đã xem xét các xu hướng dữ liệu trong hơn 30 năm về tỷ lệ mắc ung thư vú giai đoạn đầu và giai đoạn cuối ở phụ nữ từ 40 tuổi trở lên. Những gì họ tìm thấy đã gây ra một số tranh cãi, khiến một trong những tác giả phải sản xuất một đoạn video ngắn để giải thích về kết quả.
Các bác sĩ kỳ vọng rằng sẽ tìm ra số lượng lớn hơn các trường hợp ung thư giai đoạn đầu sẽ đi kèm với việc giảm số lượng phụ nữ mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối. Điều này không đúng, cho thấy có một số lượng đáng kể phụ nữ được chẩn đoán quá mức và rằng “việc khám sàng lọc này cùng lắm chỉ ảnh hưởng rất nhỏ đến tỷ lệ tử vong do ung thư vú”.
Trong video này, người thuyết trình đưa ra quan điểm rằng gần “một nửa trường hợp chẩn đoán ung thư vú bằng nhũ ảnh là chẩn đoán quá mức.” Tác hại của việc chẩn đoán quá mức không chỉ dừng lại ở việc khủng hoảng tâm lý mà nó gây ra cho một người phụ nữ và gia đình của cô ấy. Nó cũng dẫn đến điều trị quá mức và việc điều trị thường bắt đầu bằng việc làm sinh thiết.
Kết quả dương tính giả khi chụp nhũ ảnh đã tiêu tốn của Hoa Kỳ 4 tỷ USD mỗi năm khi việc điều trị được bắt đầu bởi một chẩn đoán sai, bao gồm cả việc hóa trị và cắt bỏ vú, chỉ để phát hiện ra rằng khối u là lành tính. Điều này đặt lên vai người phụ nữ và gia đình cô ấy một gánh nặng về cảm xúc, tinh thần, và tài chính.
Bản thân việc chụp nhũ ảnh cũng không phải là không có rủi ro. Chụp nhũ ảnh sử dụng tia X với bức xạ ion hóa liều lượng tương đối cao; điều này sẽ góp phần vào sự phát triển của ung thư vú. Trong một nghiên cứu năm 2016, các tác giả viết, “Bức xạ ion hóa được sử dụng trong chụp nhũ ảnh X-quang liều thấp có thể liên quan đến nguy cơ phát sinh ung thư do bức xạ.”
Theo một nghiên cứu, việc tầm soát hàng năm bằng chụp nhũ ảnh kỹ thuật số hoặc phim màn hình ở phụ nữ từ 40 đến 80 tuổi có liên quan đến nguy cơ trọn đời trong việc gia tăng ung thư, và trong số 100,000 trường hợp chụp nhũ ảnh thì tỷ lệ tử vong do ung thư vú là 20–25 trường hợp. Nói cách khác, cứ 100,000 phụ nữ được chụp X quang tuyến vú hàng năm thì sẽ có từ 20–25 trường hợp tử vong vì ung thư trong cuộc đời của họ.
Sự lựa chọn của bạn
Mặc dù chụp nhũ ảnh là phương pháp thường được khuyên dùng nhiều nhất, nhưng phụ nữ cũng có các lựa chọn khác cho các xét nghiệm chẩn đoán không sử dụng bức xạ. Phụ nữ cần được cung cấp thông tin để đưa ra quyết định sáng suốt và được phép lựa chọn. Những lựa chọn khác có thể an toàn hơn bao gồm tự kiểm tra vú và khám lâm sàng, đo bức xạ nhiệt, siêu âm, và MRI.
Điều quan trọng là bạn cũng cần hiểu rằng việc tầm soát không ngăn ngừa ung thư vú. Thay vào đó, phòng ngừa bệnh bao gồm lựa chọn lối sống lành mạnh, tránh các chất độc, và chú ý đến các yếu tố dinh dưỡng nhất định. Vitamin D là một yếu tố dinh dưỡng quan trọng có thể làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư vú.
Bạn nên biết nồng độ vitamin D của mình vì điều này rất quan trọng đối với một số tình trạng sức khỏe, và việc tối ưu hóa nó là để bảo vệ sức khỏe của bạn. Y học thông thường có thể khiến phụ nữ tin rằng chỉ cần làm xét nghiệm hàng năm sẽ bảo vệ họ khỏi ung thư vú. Tuy nhiên, thực hiện một lối sống lành mạnh và nhận thông báo về các lựa chọn kiểm tra của bạn có thể giúp bạn tránh được cạm bẫy chết người tiềm ẩn này.
Tiến sĩ Joseph Mercola là bác sĩ chỉnh xương – tác giả bán chạy nhất và nhận nhiều giải thưởng trong lĩnh vực sức khỏe tự nhiên. Bài báo này được xuất bản lần đầu trên Mercola.com.