Những tiến bộ vượt bậc trong phẫu thuật não
Lịch sử đáng buồn của phẫu thuật não đã nhường chỗ cho những phương pháp điều trị đột phá mang lại kết quả khả quan cho nhiều bệnh nhân.
PT là một người đàn ông 78 tuổi bị chứng run cơ suy nhược vô căn, cánh tay và bàn tay của ông thường run rẩy, đến mức ông không thể viết tên của chính mình và thậm chí không thể cầm được tách cà phê. Bác sĩ thần kinh của ông đã thử nhiều loại thuốc khác nhau nhưng đều không có tác dụng gì ngoài việc gây ra những tác dụng phụ nghiêm trọng.
Bác sĩ thần kinh của ông là một bác sĩ nội khoa giỏi và có chuyên môn. Anh đã giới thiệu ông đến bác sĩ ngoại thần kinh để tiến hành phẫu thuật kích thích não sâu (DBS). DBS liên quan đến việc kích thích điện các cấu trúc não sâu thông qua các điện cực cấy ghép kết nối với máy phát điện được cấy ghép (trong lồng ngực). Các điện cực nối từ máy phát điện đến các khu vực não xảy ra cơn run, sau đó được kết nối với một bộ nguồn. [Tại đây] có một bộ thu không dây có thể kiểm soát các kích thích và hầu hết các cơn run.
DBS trở nên phổ biến hơn trong hơn hai thập kỷ qua đặc biệt là đối với bệnh nhân bị bệnh Parkinson. DBS cũng được chỉ định cho nhiều loại run vô căn. Một bài viết vào năm 2004 đăng trên tạp chí Cell and Tissue Research (Nghiên cứu tế bào và mô) đã viết rằng, “Hiệu quả của liệu pháp này phụ thuộc phần lớn vào việc lựa chọn bệnh nhân phù hợp và việc cấy ghép chính xác các điện cực kích thích.”
Có nhiều liệu pháp cắt đốt sử dụng nhiệt độ cực cao hoặc cực thấp để phá hủy các mô bất thường hoặc điều trị các tình trạng khác. Những liệu pháp này đôi khi cũng có thể làm giảm hoặc loại bỏ chứng run cơ, nhưng DBS dường như vẫn được xem là phẫu thuật chính có hiệu quả điều trị cao.
Bác sĩ ngoại thần kinh người Pháp, Tiến sĩ Alim-Louis Benabid là người đầu tiên thực hiện phẫu thuật DBS vào năm 1987, mặc dù phải đến năm 1998, DBS mới được chấp nhận như một lựa chọn điều trị. Tuy nhiên, phẫu thuật não lại không có lịch sử xuất sắc như vậy. Phương pháp kích thích hoặc thậm chí cắt đứt thần kinh ở các vùng dưới vỏ não được thực hiện từ những năm 1950 để “điều trị” bệnh tâm thần, đau, và các khuynh hướng bạo lực.
Tất cả chúng ta đều đã nghe nói về phẫu thuật mở thuỳ trán và cảm thấy rùng mình khi hình dung về những linh hồn tội nghiệp đó. Một nhà thần kinh học người Bồ Đào Nha, Tiến sĩ Igaz Muniz là người tiên phong trong việc thực hiện phẫu thuật này vào năm 1936. Ông thực hiện ca phẫu thuật mở thuỳ trán lần đầu tiên với sự hỗ trợ của bác sĩ ngoại thần kinh, Tiến sĩ Almeida Lima.
Tiến sĩ Walter Freeman đã phổ biến phương pháp này ở Hoa Kỳ vào những năm 1940. Năm 1942, ông đã công bố kết quả của 200 bệnh nhân đầu tiên của mình: “63% bệnh nhân đã cải thiện; 23% bệnh nhân không cải thiện; và 14% chuyển biến nặng hơn hoặc không thể chịu đựng được sau cuộc phẫu thuật.”
Trong cùng năm, tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (JAMA) đã đăng một luận văn về “hỗ trợ cơ sở cho quy trình và các chỉ định của phẫu thuật mở thuỳ trán.”
Các cuộc phẫu thuật ban đầu rất hoang dã. Đầu tiên, bệnh nhân bị sốc đến hôn mê, sau đó bác sĩ phẫu thuật sẽ dùng một dụng cụ sắc nhọn tương tự như dùi đá để đâm xuyên qua hộp sọ ngay phía trên hốc mắt, cắt đứt thần kinh nối thuỳ trán với các trung tâm kiểm soát cảm xúc ở bên trong bộ não.
Freeman đã phát triển một kỹ thuật không cần gây mê toàn thân. Mục đích của phẫu thuật mở thuỳ trán là làm dịu những bệnh nhân bạo lực mất kiểm soát hoặc hay xúc động. Kỳ lạ là theo Freeman và những người khác như ông đều nói rằng phương pháp này có “hiệu quả”.
Ngoài bản thân cuộc phẫu thuật, các tác dụng phụ [do nó mang lại] cũng rất khủng khiếp, bao gồm chứng són tiểu và nôn mửa. Mặc dù đây là một phẫu thuật “rùng rợn” nhưng vẫn được thực hiện rất phổ biến. Từ năm 1937 đến năm 1967, có hàng chục nghìn người đã trải qua phẫu thuật mở thuỳ trán, khiến nhiều người trở nên lờ đờ và không thể kiểm soát cơn bốc đồng. Tỷ lệ tử vong do phẫu thuật là 25%. Việc phát minh ra thuốc lithium vào năm 1949 đã mang đến triển vọng cho những người bị bệnh tâm thần nghiêm trọng, nhưng đáng buồn thay, phẫu thuật mở thuỳ trán vẫn được thực hiện trong nhiều năm.
Lần cuối cùng Freeman thực hiện loại phẫu thuật này là vào năm 1967, lần thứ ba trên cùng một bệnh nhân, Helen Mortensen, người đã tử vong vì xuất huyết não ngay sau đó. Kết quả là Freeman cuối cùng đã bị cấm thực hiện bất kỳ cuộc phẫu thuật nào.
Loại phẫu thuật này trên thực tế đã được thực hiện trong nhiều thế kỷ trước đó với tên gọi là phẫu thuật khoan sọ. Phẫu thuật khoan sọ là quy trình phẫu thuật được ghi nhận đầu tiên và được thực hiện sớm nhất vào thời kỳ đồ đá mới (4500 trước Công nguyên). Bác sĩ phẫu thuật sẽ tạo ra một lỗ trên hộp sọ (lỗ Burr) bằng cách cắt bỏ một phần hộp sọ.
Hiện nay phẫu thuật khoan sọ vẫn được thực hiện nhằm giảm áp lực quá mức lên não, thường xảy ra do tụ máu dưới màng cứng (chảy máu trong não) sau chấn thương sọ não. May mắn thay, kỹ thuật này đã được cải thiện đáng kể kể từ thời thượng cổ.
Khoa học thần kinh đã phát triển vượt bậc trong 50 năm qua, với những kết quả đáng kinh ngạc, chẳng hạn như phẫu thuật kích thích não sâu làm thay đổi cuộc sống của những người mắc chứng run cơ vô căn, đồng thời cũng được xem xét để điều trị cho bệnh trầm cảm kháng thuốc. Một bài tổng quan hệ thống và phân tích gộp về phẫu thuật kích thích não sâu đối với bệnh trầm cảm được đăng trên tạp chí Depression and Anxiety vào năm 2018 kết luận rằng phương pháp điều trị này có thể mang lại nhiều hứa hẹn nhưng vẫn còn đang trong quá trình thử nghiệm.
Động kinh là căn bệnh chủ yếu khác ảnh hưởng đến hơn 50 triệu người trên thế giới, với khoảng 20% người kháng thuốc.
Một nghiên cứu năm 2017 được công bố trên tạp chí Epilepsia cho thấy rằng phẫu thuật kích thích não sâu làm giảm cơn co giật ở những người bị động kinh kháng thuốc từ 46% đến 95% trong một nửa số bệnh nhân được nghiên cứu.
Bạn của tôi, PT, đã có kết quả điều trị cải thiện đáng kể sau phẫu thuật DBS. Ông nóng lòng muốn cho tôi xem video trước và sau khi ông viết được tên mình. Bác sĩ thần kinh của ông và chính PT là người điều chỉnh thiết bị [kích thích] và sử dụng một thiết bị [khác] giống như iPhone để bật, điều chỉnh, hoặc tắt các xung điện DBS.
Đây quả thực là phẫu thuật làm thay đổi cuộc đời đối với PT.
Thật khó để không nghĩ đến việc cuộc sống của hàng nghìn người đang bị huỷ hoại bởi những “bác sĩ” như Freeman và phẫu thuật mở thuỳ trán. Tuy nhiên, những thành công vang dội trong phẫu thuật thần kinh hiện nay đã thực sự cứu sống và cải thiện chất lượng cuộc sống của hàng nghìn người.
Phẫu thuật thần kinh chắc chắn đã có những bước tiến dài kể từ sau phẫu thuật mở thuỳ trán.
Tiến sĩ Peter Weiss là khách mời thường xuyên của các đài truyền hình địa phương và quốc gia, báo chí và đài phát thanh. Ông là trợ lý giáo sư lâm sàng sản phụ khoa tại Trường Y David Geffen tại UCLA trong 30 năm, ông đã nghỉ việc để có thể hỗ trợ về mặt lâm sàng cho người có nhu cầu trong đại dịch COVID. Ông cũng là cố vấn chăm sóc sức khỏe quốc gia cho chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2008 của thượng nghị sĩ John McCain.