Một số loại thuốc dùng khi mang thai làm tăng nguy cơ tổn thương não gấp đôi
Một nghiên cứu mới cho thấy mối liên quan giữa một loại thuốc khác với nguy cơ thần kinh cho trẻ em
Một nghiên cứu mới đã phát hiện ra thêm một rủi ro khác đối với thai nhi trong các phương pháp điều trị và thực hành phổ biến có thể dẫn đến các vấn đề về thần kinh cho trẻ em.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng việc tiếp xúc với thuốc chống động kinh trước khi sinh có thể làm tăng nguy cơ rối loạn phát triển thần kinh ở trẻ. Bài báo được bình duyệt đã được công bố trên tập san JAMA Neurology vào ngày 31/05.
Một nhóm gồm 17 nhà khoa học, hầu hết đến từ Scandinavia, đã nghiên cứu hơn 4.5 triệu trẻ sơ sinh tiếp xúc với nhiều loại thuốc chống động kinh khác nhau được các bà mẹ dùng khi mang thai.
Các nhà khoa học đã phân tích tác dụng của một số loại thuốc chống động kinh, bao gồm topiramate và valproate, cũng như phơi nhiễm trước khi sinh với sự kết hợp của các loại thuốc chống động kinh, chẳng hạn như levetiracetam với carbamazepine và lamotrigine với topiramate.
Những loại thuốc chống co giật này, có nhiều tên thương hiệu khác nhau, thường dành cho những người bị chứng động kinh. Chúng có tác dụng ngăn ngừa co giật, cũng như ngăn ngừa chứng đau nửa đầu, rối loạn phổ lưỡng cực và các vấn đề thần kinh khác.
Tăng nguy cơ tự kỷ gấp đôi đến gấp bốn lần
Các nhà nghiên cứu Scandinavi đã phát hiện ra rằng hai loại thuốc chống động kinh, topiramate và valproate, có liên quan đến việc tăng đáng kể nguy cơ thiểu năng trí tuệ và rối loạn phổ tự kỷ.
Trên thực tế, những đứa trẻ bị phơi nhiễm trong thời kỳ mang thai có nguy cơ gặp các vấn đề về nhận thức cao gấp hai đến bốn lần so với những đứa trẻ không bị phơi nhiễm.
Nguy cơ cũng tăng cao tương tự đối với trẻ em dùng kết hợp levetiracetam với carbamazepine và lamotrigine với topiramate.
Nguy cơ đặc biệt cao đối với trẻ sơ sinh tiếp xúc với topiramate. Những đứa trẻ này không chỉ có nguy cơ bị dị tật phát triển thần kinh cao hơn mà còn có nguy cơ bị nhẹ cân và dị tật bẩm sinh cao hơn.
Một số loại thuốc tốt hơn những loại khác
Bất chấp những tác động tiêu cực của những loại thuốc này đối với trẻ em, một số phụ nữ, đặc biệt là những người bị chứng động kinh nặng, bác sĩ cho biết rằng họ không thể ngừng dùng thuốc theo toa một cách an toàn trong khi mang thai. Vậy một phụ nữ mang thai (hoặc một cặp vợ chồng đang cố gắng thụ thai) nên làm gì?
May mắn thay, thuốc gabapentin và pregabalin không làm tăng nguy cơ rối loạn phổ tự kỷ hoặc chậm phát triển trí tuệ khi dùng trong thời kỳ mang thai. Cả hai loại thuốc này đều được sử dụng để điều trị co giật và là một giải pháp thay thế cho phụ nữ mang thai bị động kinh.
Phụ nữ mang thai dùng một trong những loại thuốc chống động kinh này để chữa bệnh mà không phải để ngăn ngừa động kinh nên xem xét các lựa chọn khác. Topiramate và valproate thường được sử dụng để điều trị chứng đau nửa đầu, nhưng nghiên cứu này cho thấy phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cần tìm những cách khác để giảm đau nếu đang mang thai hoặc có ý định mang thai.
Phương pháp điều trị chứng đau nửa đầu thay thế
Các lựa chọn tự nhiên có thể giúp ngăn ngừa và chữa trị chứng đau đầu và chứng đau nửa đầu trầm trọng đang được các bác sĩ y khoa chính thống chấp nhận hơn bao gồm magnesium — thông qua thực phẩm, chất bổ sung và tắm muối Epsom.
Kiểm tra khả năng dung nạp thực phẩm và các yếu tố kích hoạt khác cũng có thể hữu ích, cũng như thử các chất chống viêm tự nhiên, chẳng hạn như nghệ.
Một nghiên cứu mù đôi có đối chứng với giả dược năm 2021 được công bố trên Tập san Y tế International Journal of Preventive Medicine cho thấy chất curcumin, thành phần chính trong củ nghệ, giúp cải thiện chứng đau đầu và giảm viêm.
Theo một nghiên cứu khác được công bố gần đây, nghệ dường như cũng an toàn và thậm chí có ích trong thời kỳ mang thai. Tuy vậy, phụ nữ mang thai nên thận trọng, đặc biệt nếu dùng nghệ như một loại thực phẩm bổ sung chứ không phải như một loại gia vị nấu nướng hoặc một loại thực phẩm nguyên chất.
Thận trọng khi mang thai
Mang thai là thời gian cần đặc biệt cẩn thận với việc tiếp xúc với các chất độc từ môi trường, bao gồm cả thuốc theo toa; thuốc không kê toa, chẳng hạn như acetaminophen; glyphosate và các loại thuốc diệt cỏ khác; tác nhân gây béo phì; và thậm chí cả nước hoa tổng hợp.
Từ những năm 1970, các nhà khoa học (và công chúng) đã biết rằng việc tiếp xúc với một số loại thuốc nhất định trước khi sinh có thể tàn phá sức khỏe trẻ sơ sinh – cho dù các tác động có được nhìn thấy khi sinh hay không cho đến nhiều năm sau.
Thuốc thalidomide là một ví dụ. Thalidomide lần đầu tiên được sử dụng ở Đức như một loại thuốc an thần vào cuối những năm 1950. Không cần thử nghiệm trước, các bác sĩ bắt đầu kê toa cho phụ nữ mang thai để điều trị chứng lo âu và ốm nghén.
Theo The New York Times đưa tin vào năm 2020, trong khoảng thời gian từ những năm 1950 đến 1960, hàng ngàn trẻ sơ sinh được sinh ra với dị tật bẩm sinh trầm trọng ở Đức, Úc và Vương quốc Anh.
Nhiều trẻ không có chân, mất ngón tay và các cơ quan dị dạng. Điểm chung của những đứa trẻ này là người mẹ đã dùng thalidomide khi mang thai.
Thảm họa Diethylstilbestrol
Thalidomide chưa bao giờ được chấp thuận chính thức tại Hoa Kỳ để sử dụng trong thời kỳ mang thai nhờ một nhà phê bình thuốc người Canada làm việc tại Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm, Tiến sĩ Frances Kelsey. Cô là người đã phân tích kỹ dữ liệu và thách thức các đồng nghiệp của cô cũng như ngành công nghiệp dược phẩm bằng cách mạnh dạn nhấn mạnh rằng hồ sơ an toàn không đủ yên tâm để bảo đảm chấp thuận. Thật không may, chính là diethylstilbestrol.
Diethylstilbestrol (DES) là một loại estrogen tổng hợp. Hàng triệu phụ nữ ở Hoa Kỳ và trên khắp thế giới đã được các bác sĩ cho biết rằng loại hormone tổng hợp này an toàn khi sử dụng trong thời kỳ mang thai để ngăn ngừa các biến chứng và sảy thai.
Theo một nghiên cứu năm 2013 trên Tập san Birth Defects Research, diethylstilbestrol đã có tác dụng ngược lại.
Hóa ra việc tiếp xúc với DES trước khi sinh khiến trẻ em bị vô sinh và biến dạng đường sinh sản.
Bé trai có mẹ dùng DES có nguy cơ bị ung thư tinh hoàn và tuyến tiền liệt cao hơn. Bé gái có mẹ dùng DES có nguy cơ sinh non, sảy thai và thai chết lưu cao hơn. Các em cũng dễ bị ung thư vú và ung thư cổ tử cung hơn. Trên thực tế, những phụ nữ trẻ có mẹ dùng DES khi mang thai có nguy cơ bị ung thư cổ tử cung cao gấp 40 lần.
Trớ trêu thay, một loại thuốc mà các bác sĩ khuyến khích phụ nữ sử dụng để “bảo vệ” chống sảy thai lại thực sự dẫn đến sảy thai nhiều hơn.
Tự kỷ do phơi nhiễm các chất độc thần kinh từ môi trường
Nghiên cứu mới về Scandinavia rất quan trọng vì một lý do khác. Nó xác nhận những gì cha mẹ của trẻ tự kỷ đã nói trong nhiều năm: rằng bệnh tự kỷ và các rối loạn thần kinh khác, bao gồm viêm não và bệnh não, có thể do tiếp xúc với các chất độc thần kinh.
Theo một nghiên cứu mới, ở Trung Quốc, tỷ lệ bị tự kỷ đã tăng lên 1/30 trẻ em. Một phân tích được bình duyệt vào năm 2017 tại Hoa Kỳ của một nhà khoa học khí quyển được đào tạo tại Stanford xác nhận rằng có sự gia tăng bệnh tự kỷ. Điều này không thể được giải thích bằng di truyền học và phải do tiếp xúc với môi trường gây ra.
Các lần phơi nhiễm trong tử cung đối với thai nhi liên quan đến bệnh tự kỷ bao gồm chích vaccine quá liều trong khi mang thai, tiếp xúc quá nhiều với siêu âm và acetaminophen (thành phần chính trong Tylenol.)
Em bé đang lớn dường như đặc biệt dễ bị tổn thương khi những phơi nhiễm xảy ra trong ba tháng đầu tiên của thai kỳ. Một nghiên cứu năm 2017 của Kaiser Permanente được công bố trên JAMA Pediatrics đã kiểm tra con của hơn 45,000 phụ nữ đã chích ngừa vaccine cúm trong thời kỳ mang thai. Các nhà nghiên cứu này đã phát hiện ra rằng việc chích ngừa vaccine cúm trong ba tháng đầu có liên quan đến nguy cơ bị tự kỷ cao hơn.
Một nghiên cứu lớn hơn trên 1.2 triệu ca mang thai ở Phần Lan đã phát hiện ra rằng khi các bà mẹ có dấu hiệu viêm nhiễm cao, con của họ có nguy cơ bị tự kỷ cao hơn 43% so với những bà mẹ không có dấu hiệu viêm nhiễm. Cả chích ngừa và nhiễm trùng đều có thể gây viêm.
Siêu âm cũng liên quan đến tổn thương não
Vào năm 2016, các nhà nghiên cứu từ Đại học Washington đã thực hiện một nghiên cứu được công bố trên Tập san Autism Research để kiểm tra tác động của siêu âm đối với thai nhi. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra mối liên quan giữa việc tiếp xúc với siêu âm trước khi sinh trong ba tháng đầu tiên với tăng nguy cơ bị rối loạn phổ tự kỷ và chỉ số IQ thấp hơn.
Nghiên cứu này bổ sung thêm bằng chứng khoa học – phần lớn bị cơ sở y tế bỏ qua, bao gồm nghiên cứu được thực hiện ở Úc, Anh, Canada, Ireland và Hoa Kỳ – về tính an toàn của siêu âm trước khi sinh. Thật vậy, nghiên cứu khoa học đã cho thấy rằng gel siêu âm khiến phụ nữ mang thai bị rối loạn nội tiết. Các nhà khoa học cũng đã tìm thấy con đường di chuyển bị gián đoạn của các tế bào não đang phát triển trong bào thai của những con chuột có mẹ tiếp xúc với siêu âm.
Trước những kết quả mâu thuẫn và áp lực của ngành (siêu âm là lĩnh vực kinh doanh lớn, theo các nhà phân tích thị trường), cần có những nghiên cứu theo chiều dọc, được thiết kế tốt hơn với các nhóm lớn trẻ sơ sinh đang mang thai tiếp xúc với siêu âm và một nhóm đối chứng không tiếp xúc với siêu âm. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi, phụ nữ mang thai cần phải cẩn thận để tránh bất cứ điều gì có thể góp phần gây rối loạn não ở trẻ.
“Chúng ta nên thận trọng,” Tiến sĩ Manuel Casanova, giáo sư khoa học y sinh tại Trường Y thuộc Đại học Nam Carolina ở Greenville và chuyên gia hàng đầu về bệnh tự kỷ, cho biết trong một cuộc phỏng vấn năm 2011.
Kim Khuê biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times