Lợi thế của Phi Châu: Lý do khiến ‘các nước kém phát triển’ không bị ảnh hưởng bởi COVID
Quần xã sinh vật đa dạng, nhiều giun sán và lợi khuẩn, ít đeo khẩu trang và cách ly xã hội, sử dụng ivermectin, và tỷ lệ chích ngừa thấp đã khiến Phi Châu có lợi thế hơn trong việc chống lại COVID-19.
Theo Bảng thống kê dữ liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, có khoảng 9 triệu trường hợp nhiễm COVID-19 được xác nhận và 173,900 trường hợp tử vong do COVID ở Phi Châu tính đến tháng 07/2022.
Những con số này trái ngược hoàn toàn so với nhiều nơi trên thế giới về tỷ lệ nhiễm bệnh và tử vong. Từ khi dịch bệnh bắt đầu cho đến nay, Âu Châu đã báo cáo hơn 239 triệu trường hợp được xác nhận dương tính và hơn 2 triệu trường hợp tử vong.
Illiasou Ibrahim, 53 tuổi, người trao đổi với các nhóm phi lợi nhuận quốc tế tại Niamey, thủ đô của Niger, cho biết: “Chúng tôi chỉ coi đó là cơn cảm lạnh đơn thuần.”
Niger, một quốc gia không giáp biển, là nơi lưu hành bệnh sốt rét và viêm màng não. Tại đây, tuổi thọ trung bình của người dân chỉ có 63 tuổi.
Tuy nhiên, Ibrahim nói với The Epoch times rằng, anh không quen biết ai đã tử vong vì COVID.
Vì vậy, người dân ở Phi Châu chỉ đơn giản là không bị COVID thường xuyên như người dân Âu Châu hoặc nếu có, thì họ cũng không bị nặng đến mức phải báo cáo. Dù sao đi nữa, [tình hình] COVID ở Phi Châu tốt hơn rất nhiều so với Âu Châu hoặc Hoa Kỳ.
Đây không phải là những gì chúng ta thường nghĩ tới. Tình trạng suy dinh dưỡng, nghèo đói, thiếu nguồn nước sạch khiến cho [người dân] ở nhiều nơi thuộc vùng Phi Châu gần sa mạc Sahara khó có thể sống khỏe mạnh.
Chúng ta thường được nghe các quan chức y tế công cộng nói nhiều lần rằng những đất nước có thu nhập cao thường có nền y học tiên tiến và lợi thế chống lại đại dịch tốt hơn.
Vậy bằng cách nào mà các nước kém phát triển như Niger hầu như không bị ảnh hưởng bởi COVID khi so sánh với các nước phát triển tại Mỹ Châu và Âu Châu?
Lợi thế từ nhiễm giun sán
Trong một bài báo năm 2021 được đăng trên Tạp chí Tiến hóa, Y học, and Sức khỏe công cộng, một nhóm nhà khoa học từ Trung tâm Y tế của trường Đại học Duke thực sự dự đoán rằng Phi Châu và các nước đang phát triển sẽ có ít trường hợp tử vong và tình hình dịch bệnh diễn biến tốt hơn so với những nơi có nền kinh tế phát triển.
Họ giải thích rằng hệ thống vệ sinh hiện đại có thể gây nên sự thiếu đa dạng sinh học trong cơ thể con người, vốn có tác dụng giúp hệ miễn dịch không phản ứng quá mức với các bệnh nhiễm trùng do virus hoặc vi khuẩn.
Theo các nhà nghiên cứu, việc những người sống tại các nước có thu nhập cao không có giun sán trong đường ruột sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của họ, khiến họ dễ bị nhiễm COVID nghiêm trọng.
Mặc dù vệ sinh đúng cách là rất quan trọng để ngăn chặn các bệnh nhiễm trùng lây lan, nhưng không phải mọi tác động của việc vệ sinh đều có lợi. Trên thực tế, vệ sinh quá nhiều thực sự có thể khiến mọi người dễ mắc một số bệnh tự miễn dịch hơn, theo giả thuyết về vệ sinh của một nhà miễn dịch học người Anh, Tiến sĩ David Strachan, được đăng trên Tạp chí Y khoa Anh Quốc vào cuối những năm 1980.
Mặc dù những quan điểm thông thường cho rằng các loại giun sán là những ký sinh trùng gây bệnh không có lợi, những bằng chứng mới đây cho thấy các loại giun sán đường ruột có vai trò quan trọng đối với sự phát triển về chức năng miễn dịch và sức khỏe tổng thể.
Theo Tiến sĩ William Parker, nhà miễn dịch học và chuyên gia giun cộng sinh, đã đề cập trong một bài báo năm 2016, tuy rằng nghe có vẻ “thô thiển,” nhưng giun sán có vai trò kích thích cơ thể sản xuất các chất kháng viêm và xây dựng hệ miễn dịch lành mạnh.
Parker là một trong những đồng tác giả của bài báo năm 2021 nói về sự thiếu hụt giun sán trong cơ thể do vệ sinh quá mức có thể gây ra các bệnh viêm kinh niên như rối loạn tự miễn dịch và dị ứng.
Điều này có thể giải thích tại sao tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do COVID-19 thường cao ở các nước phát triển, nơi phổ biến với những căn bệnh tự miễn dịch và “suy giảm quần xã sinh vật.”
Suy giảm quần xã sinh vật nói đến sự thiếu đa dạng của các sinh vật trong cơ thể con người, bao gồm các tế bào vốn có của con người, cũng như vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng động vật, và sinh vật nguyên sinh.
Các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng nguyên nhân chính khiến COVID-19 không ảnh hưởng nhiều đến các nước Phi Châu là do phần lớn người dân ở một nước như Niger đều sống chung với giun sán và những con giun sán này đã giúp ngăn chặn những tác động xấu lớn từ virus.
Kết cục cải thiện nhờ Ivermectin
Theo một nhóm các nhà nghiên cứu ở Colombia, nguyên nhân khác khiến [tình hình dịch bệnh] ở Phi Châu tốt hơn nhiều so với Âu Châu và Mỹ Châu có thể là do việc sử dụng rộng rãi thuốc Ivermectin.
Ivermectin được dùng để điều trị dự phòng bệnh mù sông (nhiễm giun chỉ Onchocerca).
Một nghiên cứu năm 2021 trên Tạp chí Điều trị Hoa Kỳ đã kiểm tra hiệu quả của ivermectin đối với việc ngăn ngừa và điều trị nhiễm COVID-19. Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng “sử dụng ivermectin vào giai đoạn sớm trên lâm sàng có thể giảm các trường hợp tiến triển thành bệnh nặng.”
Mặc dù ivermectin vẫn còn gây tranh cãi, các nhà lâm sàng trên khắp thế giới đã báo cáo các kết quả thành công của việc sử dụng ivermectin trong phác đồ điều trị sớm.
Các phương pháp khiến tình hình tệ hơn
Trớ trêu thay, các phương pháp điều trị tích cực được áp dụng ở các nước phát triển để kiểm soát COVID-19 thực sự có thể khiến mọi thứ trở nên tệ hơn.
Illiasou Ibrahim nói với The Epoch Times rằng anh chỉ mang khẩu trang một vài lần trong hai năm qua nhưng chỉ để tránh bụi và mùi hôi, không có người nào ở Niger phải cách ly với mọi người cả.
“Chúng tôi vẫn luôn duy trì thói quen tiếp xúc [với nhau] như trước,” Ibrahim giải thích.
Theo [lý thuyết] khoa học gần đây, khẩu hiệu “khẩu trang cứu sống mạng người” đã không còn đúng nữa.
Trong hầu hết các trường hợp, khi so sánh tỷ lệ nhiễm COVID ở các hạt yêu cầu bắt buộc đeo khẩu trang và các hạt không yêu cầu thuộc khu vực vùng Vịnh California, tỷ lệ nhiễm thường cao hơn ở những nơi buộc phải đeo khẩu trang.
Trong một nghiên cứu năm 2022 trên Tạp chí Y khoa so sánh tỷ lệ tử vong do COVID giữa các hạt ở Kansas, nơi bắt buộc đeo khẩu trang với những nơi không bắt buộc.
Các hạt bắt buộc đeo khẩu trang có tỷ lệ tử vong do COVID-19 nhiều hơn so với các hạt không bắt buộc.
Bác sĩ người Đức, Zacharias Fögen đã giải thích trong nghiên cứu rằng, theo một cách vô thức người đeo khẩu trang đã giữ virus trong khẩu trang và hít lại vào phổi.
Vì vậy, theo Tiến sĩ Fögen, việc đeo khẩu trang thực sự làm tăng lượng virus, khiến mọi người hít lại những thứ mà đường hô hấp đã cố gắng loại bỏ.
Vào năm 2020, theo một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên trên quy mô lớn ở Đan Mạch được công bố trên Biên niên sử về Y học Nội khoa, không tìm thấy bất kỳ một tác dụng bảo vệ nào có ý nghĩa thống kê trên những người đeo khẩu trang so với những người không đeo khẩu trang.
Những bằng chứng khoa học khác cho thấy “việc duy trì độ ẩm, tái sử dụng khẩu trang bằng vải và khả năng lọc kém làm tăng nguy cơ nhiễm trùng.”
Theo tờ The Epoch Times đưa tin gần đây, các nhà thần kinh học phát hiện rằng đeo khẩu trang cũng có thể làm ảnh hưởng đến sức khỏe não bộ.
Cách ly xã hội gây hại cho các hệ thống trong cơ thể
Cách ly xã hội là một giải pháp phổ biến khác được đưa ra để làm chậm sự lây lan của COVID-19 tại Âu Châu và Mỹ Châu, nhưng hầu như không được nghe thấy ở nhiều nước Phi Châu.
Tiến sĩ Byram Bridle, nhà miễn dịch học từ Đại học Guelph ở Canada nói với phóng viên của The Guardian rằng cách ly xã hội sẽ khiến trẻ ít tiếp xúc với thế giới tự nhiên, nơi chứa đầy vi khuẩn giúp hệ miễn dịch phát triển mạnh mẽ hơn.
Những người buộc phải cách ly xã hội sẽ thiếu hụt vi khuẩn và làm tăng nguy cơ mắc hàng loạt các bệnh viêm nhiễm một khi thoát khỏi tình trạng cô lập.
Tiến sĩ Thomas Murray, giáo sư nhi khoa trường đại học Yale và chuyên gia về bệnh truyền nhiễm, đã phát hiện điều này. Theo báo cáo gần đây trong một bài viết của New York Post, Murray và nhiều người khác nhận thấy sự gia tăng đáng kinh ngạc của virus đường hô hấp sau phong tỏa và đóng cửa trường học vào năm 2020 và 2021.
Có vẻ như cách ly xã hội càng khiến cho trẻ dễ bị nhiễm trùng nghiêm trọng hơn do virus và vi khuẩn.
Cách ly xã hội đã thất bại trong việc ngăn chặn sự lây lan của COVID-19 ở Âu Châu và Hoa Kỳ. Nhưng việc bắt buộc mọi người (cả trẻ em và người lớn) cách ly đã gây ra những tác động tiêu cực lên cả thể chất và tinh thần của chúng ta.
Vaccine chống lại virus
Trong khi tỷ lệ chích ngừa vaccine thấp ở các nước kém phát triển được coi là một vấn đề toàn cầu, chúng tôi hiện có dữ liệu cho thấy không chích vaccine thực sự có tác dụng bảo vệ và giảm tỷ lệ tử vong do COVID.
Theo giải thích trong một bài viết của Tiến sĩ Joseph Mercola, tác giả của “The Truth About COVID-19 – Sự thật về COVID-19”), và là một bác sĩ y khoa đã nghiên cứu kỹ lưỡng về dữ liệu của đại dịch, tỷ lệ chích ngừa ở vùng Phi Châu cận Sahara là dưới 6%. Mặc dù chiếm hơn 17% dân số thế giới, Phi Châu chỉ đóng góp 3% trong tổng số trường hợp tử vong do COVID-19 toàn cầu.
Những tác động tiêu cực ngoài ý muốn của tỷ lệ chích ngừa cao trong các nước phát triển như Hoa Kỳ thật đáng sợ. Tính đến ngày 15/07/2022, có 1,350,947 biến cố bất lợi được báo cáo đến CDC và FDA thông qua hệ thống VAERS (Hệ thống báo cáo các biến cố bất lợi do vaccine).
Trong những báo cáo này phải kể đến 29,635 trường hợp tử vong sau khi chích vaccine COVID.
Có thể có những lời giải khác cho kết quả khả quan ở Phi Châu, bao gồm mức vitamin D tối ưu từ ánh sáng mặt trời và dân số trẻ hơn. Nhưng nhiều khả năng nhờ quần xã sinh vật đa dạng ở Phi Châu, nhiều giun sán và lợi khuẩn, ít đeo khẩu trang và cách ly xã hội, sử dụng ivermectin, và tỷ lệ chích ngừa thấp đã khiến Phi Châu có lợi thế hơn trong việc chống lại COVID-19.
Có vẻ như Hoa Kỳ cần học hỏi nhiều điều từ Phi Châu trong việc kiểm soát đại dịch.
Quan điểm được trình bày trong bài viết là ý kiến của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times. Chuyên mục Sức khoẻ của The Epoch Times hoan nghênh những thảo luận chuyên môn và tranh luận thân thiện. Để gửi ý kiến, vui lòng làm theo các hướng dẫn này và điền vào biểu mẫu của chúng tôi.
Tiến sĩ Jennifer Margulis là một nhà báo khoa học ở tiểu bang Oregon, là một nhà báo từng đoạt giải thưởng và là tác giả của cuốn sách “Con của bạn, theo cách của bạn: Chịu trách nhiệm về các quyết định mang thai, sinh con và nuôi dạy con cái của bạn để có một gia đình hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn.” Cô từng đạt giải thưởng Fulbright và là mẹ của bốn đứa con, cô đã làm việc trong một chiến dịch sống còn vì trẻ em ở Niger, phía Tây của Phi Châu. Cô xuất hiện trực tiếp trên tivi vào khung giờ vàng tại Pháp và làm việc trong một chiến dịch sống còn của trẻ em ở Niger, phía Tây của Phi Châu. Tiến sĩ Jennifer Margulis là người nhận tài trợ của Fulbright và là diễn giả được chào đón. Tìm hiểu thêm về cô ấy tại trang JenniferMargulis.net.