Các y tá mô tả phác đồ điều trị COVID-19 là ‘phi nhân tính’
Các phác đồ gây ra ‘sự mâu thuẫn trong nhận thức một cách đáng kinh ngạc’
Các y tá, những người chứng kiến các phác đồ điều trị COVID-19 “phi nhân tính” của bệnh viện đang dần giết chết bệnh nhân, đã nói nên bức tranh ảm đạm về những gì diễn ra tại hệ thống chăm sóc sức khỏe do tiểu bang và liên bang tài trợ.
Cô Staci Kay, một y tá điều trị của mạng lưới North Carolina Physicians for Freedom, người đã rời khỏi hệ thống bệnh viện để bắt đầu phòng khám tư chuyên điều trị sớm, nói với The Epoch Times: “Những điều đó thật kinh khủng, và tất cả đều đang ở trong tình trạng bế tắc. Họ sẽ không xem xét bất kỳ phác đồ điều trị nào ngoài những gì CDC (Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh) và NIH (Viện Y tế Quốc gia) cung cấp. Và không ai hỏi lý do tại sao.”
Từ những mâu thuẫn trong nhận thức về một loạt cảnh báo nguy hiểm, cô Kay cho biết nhân viên bệnh viện đang phớt lờ các phương pháp điều trị có vấn đề rõ ràng và kém hiệu quả trong các thử nghiệm lâm sàng một cách hiển nhiên, chẳng hạn như remdesivir và các quy trình như cách ly bệnh nhân, chỉ để tuân thủ các tiêu chuẩn của liên bang.
Cô nói: “Tôi đã từng chứng kiến những người thiệt mạng cùng gia đình họ khi đang trò chuyện qua video trên Ipad. Điều này thật vô nhân tính.”
Từng là một y tá trong đơn vị chăm sóc đặc biệt, Kay cho biết cô đã chứng kiến rất nhiều thảm kịch, nhưng cách những bệnh nhân COVID đang được điều trị “khiến tôi phải thức dậy vào nửa đêm và đổ mồ hôi lạnh với cơn đau ngực.”
“Tôi ghét công việc của mình,” Kay nói. “Tôi ghét phải đi làm. Tôi đã bị căng thẳng theo cách mà tôi chưa từng có trong suốt cuộc đời của mình.”
Cô nói, việc bị cách ly với gia đình thật là khó khăn, vì mọi người sẽ không thể đến để nói lời từ biệt với những người thân yêu của họ.
‘Chúng ta có thể làm tốt hơn’
Trong khi tìm kiếm các lựa chọn khác, Kay đã tìm thấy một phác đồ điều trị nội trú được của Tiến sĩ Paul Marik, thành viên sáng lập của Front Line COVID-19 Critical Care Alliance, có tỷ lệ thành công dự kiến là 94%.
Tuy nhiên, khi Kay trình bày điều này với trưởng đơn vị chăm sóc đặc biệt về phổi, cô đã bị sa thải, và vị bác sĩ đó đã khoa trương rằng bệnh viện có tỷ lệ sống sót là 66% vào thời điểm đó.
“Tôi đã nói với ông ấy, ‘Tôi cảm thấy chúng ta có thể làm tốt hơn’, nhưng tôi đã nhanh chóng bị đuổi việc,” Kay nói. “Tôi rất tức giận khi nhìn mọi người thiệt mạng và tôi biết rằng chúng tôi đã có thể làm tốt hơn nữa.”
Điều này khiến cô bắt đầu điều trị bệnh nhân ở các cơ sở ngoại trú để giúp họ tránh phải vào viện. Đây là công việc toàn thời gian của cô sau khi bị sa thải do không tuân theo những gì mà cô mô tả là những yêu cầu kiểm tra vô lý với những người chưa chích ngừa.
Tại cơ sở khám chữa bệnh từ xa của mình, Kay cho biết cô đã chứng kiến rất nhiều trường hợp phải chịu tổn thương do vaccine COVID-19.
Kay nói: “Tôi cũng nhìn thấy những tổn thương nghi ngờ do vaccine ở các bệnh nhân nội trú mà bác sĩ đã không thừa nhận. Tôi đã thấy tình trạng xuất huyết não, co giật không rõ nguyên nhân, ung thư di căn nhanh chóng, đột quỵ do thiếu máu cục bộ, và một người đã tử vong vì viêm cơ tim.”
Về phía bệnh nhân ngoại trú, cô cho biết cô cũng đã gặp các tình trạng là kết cục của vaccine COVID-19, như sương mù não, suy giảm nhận thức, đau khớp, rối loạn chức năng tiêu hóa và bệnh lý thần kinh gây tê cóng và ngứa ran ở bàn tay, bàn chân và tứ chi.
‘Phương pháp cũ trở thành mới’
Cơ sở của Kay, Sophelina Counseling, cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh từ xa, chăm sóc khẩn cấp lưu động và các liệu pháp tĩnh mạch lưu động. Những dịch vụ này nằm ngoài sự kiểm soát của tiểu bang, liên bang và tổ chức pháp nhân. Theo cô, đây là một giải pháp cho hệ thống chăm sóc sức khỏe đang bị tê liệt bởi các yêu cầu áp đặt.
“Miễn là có sự kiểm soát của tổ chức pháp nhân với ngành y tế, dù đó là Medicare hay các công ty bảo hiểm tư nhân, bạn sẽ luôn bị những nhà cung cấp ép buộc, gây áp lực để làm những việc không nên làm. Các bác sĩ đã không dùng phương pháp điều trị mà họ từng dùng.”
Vì sự kiểm soát này, danh sách hộp kiểm họ cần kiểm tra sẽ chiếm thời gian của các bệnh nhân trên thực tế.
“Thoát khỏi các tổ chức pháp nhân là một điều mang tính đột phá,” cô nói.
Kay ủng hộ việc quay lại “phương pháp cũ”, hay mô hình chăm sóc trực tiếp ban đầu, trong đó bệnh nhân sẽ trả một khoản phí hàng tháng hoặc hàng năm để tiếp cận với người cung cấp [dịch vụ chăm sóc sức khỏe] mà không có sự can thiệp của một công ty bảo hiểm truyền thống với các yêu cầu “quá phức tạp, nhức đầu và quá nhiều hộp kiểm.”
Cô chỉ ra một mô hình chăm sóc sức khỏe, GoldCare, được thiết kế bởi Tiến sĩ Simone Gold, người sáng lập của America’s Frontline Doctors.
Tiến sĩ Gold, người bị kết án hai tháng tù vì bị cáo buộc liên quan đến vụ vi phạm Điện Capitol vào ngày 06/01, đã thành lập GoldCare như một hiệp hội thành viên tư nhân (PMA).
Do phần lớn những điều công ty bảo hiểm làm là xoay quanh các vụ kiện tiềm năng, vì vậy để trở thành thành viên của PMA, người ta phải ký một điều khoản đồng ý rằng họ sẽ không kiện tụng.
“Điều đó giúp chúng tôi không phải yêu cầu các xét nghiệm hoặc tư vấn không cần thiết, chỉ để che đậy hậu quả, vì đó là những điều hầu hết công ty y dược sẽ làm,” cô nói.
Kết quả là, cả bệnh nhân và bác sĩ sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn vì quá trình điều trị không bị đè nặng bởi các yêu cầu bảo hiểm cồng kềnh.
Đối với Kay, mô hình này gợi nhớ về khoảng thời gian chăm sóc y tế đơn giản khi các bác sĩ kết nối với bệnh nhân nhiều hơn, và đó chính là chìa khóa.
“Phương pháp cũ sẽ phải trở thành phương pháp mới,” Kay nói.
NIH và CDC đã không trả lời yêu cầu bình luận của The Epoch Times về các phác đồ điều trị COVID-19.
Ngưng sử dụng bảo hiểm y tế
Sau khi nhận cá hồi, trứng và mật ong cho chi phí thanh toán, một y tá ở bang Washington giấu tên đã thể hiện sự đồng tình với quan điểm truyền thống của Kay về tương lai của ngành chăm sóc sức khỏe.
Cô nói với The Epoch Times rằng mọi người “cần phải ngưng sử dụng bảo hiểm y tế.”
“Tôi nghĩ những người không cần phẫu thuật để bảo tồn mạng sống không nên đến bệnh viện,” nữ y tá nói. “Tôi nghĩ mọi người chỉ cần tìm bác sĩ tư và trả tiền cho những gì cần thực hiện.”
Cô nói thêm, chính phủ liên bang phải được loại bỏ khỏi hệ thống chăm sóc sức khỏe.
“Đặc biệt, tôi không nghĩ rằng bất kỳ đứa trẻ nào nên đến gặp những bác sĩ này, những người đang nhận tài trợ của tiểu bang hoặc khoản bồi hoàn của Medicare và Medicaid,” nữ y tá cho biết.
Nữ y tá yêu cầu giấu tên vì ngoài việc chưa thực hiện chích ngừa, ở tiểu bang Washington và Oregon, chính phủ đã tạo điều kiện cho công chúng gửi khiếu nại nặc danh dù “chưa có bằng chứng” để phản đối các nhân viên chăm sóc sức khỏe, những người ủng hộ các phương pháp điều trị sai lệch với các phác đồ của chính phủ.
Sau khi nữ y tá bị sa thải vì không tuân thủ các quy định về vaccine, cô đã bắt đầu kinh doanh dịch vụ chăm sóc tư nhân, cung cấp các kháng thể đơn dòng, dịch truyền L-lysine và vitamin C, trị liệu bằng tia hồng ngoại và máy phun sương [cho bệnh nhân] khi có chỉ định điều trị.
‘Ngăn chặn dữ liệu trên diện rộng’
Với công việc mới ra mắt của mình, cô đã thực hiện các giải pháp can thiệp ban đầu mà theo cô các bệnh viện vốn nên thực hiện, “nhưng lại từ chối vì họ cho rằng không có bằng chứng.”
Cô đã làm việc với một mạng lưới ngày càng nhiều các bác sĩ và nhà cung cấp [dịch vụ chăm sóc sức khỏe], hoạt động như một “xã hội song song toàn diện”, bên cạnh các hệ thống chăm sóc sức khỏe “lộn xộn”.
Trong chiến dịch vaccine mở rộng trong cộng đồng, cô đã thấy sự gia tăng các ca đột quỵ và tắc mạch khi các bác sĩ tham gia vào việc “ngăn chặn dữ liệu trên diện rộng”, chẳng hạn như không báo cáo với Hệ thống báo cáo biến cố bất lợi do vaccine những trường hợp vaccine gây tổn thương và tử vong ở người (như cô đã chứng kiến), nhưng lại báo cáo các trường hợp tử vong vốn không do COVID là gây ra bởi COVID.
Thậm chí trước khi CDC sửa đổi định nghĩa về việc chưa chích ngừa, hệ thống bệnh viện vẫn đang tái phân loại những bệnh nhân chỉ chích một liều vaccine là chưa chích ngừa, cô nói.
Cô nói: “Điều tồi tệ nhất là khi bác sĩ chuyên khoa phổi quyết định rằng những bệnh nhân chưa chích vaccine sẽ phải thở máy trong vòng 7 ngày, sau đó họ sẽ nói với gia đình rằng không thể làm gì được nữa. Cuối cùng, họ sẽ rút nội khí quản cho bệnh nhân ngay cả khi có thể làm được nhiều hơn.”
Cô cho biết đã tận mắt chứng kiến điều này với một bà mẹ 33 tuổi có hai con nhỏ.
“Cô ấy đã dùng ivermectin ở nhà và được xem như một người anti-vaccine,” nữ y tá nói.
Trước khi người mẹ cuối cùng được rút nội khí quản và chuyển sang “chăm sóc tại nhà”, nữ y tá cho biết cô đã tranh luận với các nhà quản lý bệnh viện trong 12 tiếng.
Cô đã yêu cầu bác sĩ chuyên khoa phổi cân nhắc chạy thêm các xét nghiệm khác, cô nói.
“Đã hơn một tuần kể từ lần làm xét nghiệm D-dimer cuối cùng, và việc xét nghiệm lại sẽ cho thấy fibrin trong máu đang tăng hay giảm,” nữ y tá giải thích. “Một ca thuyên tắc phổi thông thường cần kiểm tra D-dimer ba ngày một lần. Ngày càng có nhiều loại thuốc chống đông với đa dạng đường dùng. Heparin tiêm tĩnh mạch có thể đảo ngược tình trạng của bệnh nhân. Nếu họ [bệnh viện] sẵn sàng từ bỏ giải pháp hỗ trợ sự sống, tại sao họ không sẵn sàng thử một thứ gì có thể loại bỏ tổn thương tuần hoàn?”
Cuối cùng, bệnh viện đã chiến thắng.
Cô nói: “Người mẹ thở một cách hổn hển và dần ra đi khi bàn tay tôi đang đỡ lưng cô ấy. Tôi không thể tin những gì đã xảy ra. Tôi đến gặp người quản lý của mình và yêu cầu kiểm tra thời gian đông máu và phác đồ điều trị thuyên tắc phổi. Kết quả, tôi đã phải dừng công việc ở đơn vị chăm sóc đặc biệt cho đến khi bị sa thải.”
Nữ y tá cho biết cô quan sát thấy các nhà quản lý liên tục quảng cáo về tính an toàn của vaccine, mặc dù những tuyên bố này không phản ánh những điều họ đang chứng kiến với các trường hợp tổn thương do vaccine ngày càng gia tăng.
Mặc dù một số nhân viên hiểu rõ sự thật nhưng vẫn lựa chọn phớt lờ để giữ lấy công việc đang làm, và cũng rất nhiều người – đúng như Kay đã nói – có “mâu thuẫn trong nhận thức một cách đáng kinh ngạc.”
“Họ đã lựa chọn chích vaccine. Và nếu họ phải đối mặt với khả năng sẽ trở thành một phần của một chương trình thực sự xấu xa, tôi không nghĩ họ có thể đối diện với chính mình,” nữ y tá nói. “Tôi đã từng thực sự tin tưởng vào những đồng nghiệp của mình, nhưng sau khi chích liều vaccine thứ hai, họ dường như đều sống trong sự hận thù. Thật khó để nói điều đó thành lời.”