Nhôm: Chất gây độc cho não có ở khắp nơi–Cách thải độc nhôm
Bạn cảm thấy lú lẫn, yếu ớt, hay suy giảm trí nhớ và sự tập trung?
Bạn có thể bị ngộ độc nhôm.
Nhôm là một kim loại có mặt khắp nơi, không chỉ được tìm thấy trong dụng cụ nấu ăn bằng nhôm—như hầu hết mọi người đã biết—mà còn có trong rau củ, nước uống, thịt, thậm chí cả và thuốc. Nhôm cũng tích tụ trong các cơ quan, đặc biệt là não.
Nhôm có mặt khắp nơi
Nhôm là nguyên tố phổ biến thứ ba trong tự nhiên, sau oxy và silicon và là nguyên tố kim loại phổ biến nhất trong vỏ trái đất.
Nhôm có tính phản ứng và hòa tan cao. Nó có trong không khí, đất, nước và thực vật hấp thụ nước, bao gồm cả các loại rau củ thông thường. Do đó, nó cũng tồn tại trong thịt của các loài động vật ăn cỏ.
Rau bina, trà, một số loại thảo mộc và gia vị có hàm lượng nhôm tự nhiên cao.
Một số loài thực vật [phát triển tươi tốt] nhờ nhôm. Ví dụ, cây chè dựa vào nhôm như một chất dinh dưỡng thiết yếu cho sự phát triển. Nơi tích trữ nhôm trong thực vật ảnh hưởng đến lượng nhôm mà chúng ta hấp thụ. Ví dụ, rau bina và trà có xu hướng tích nhôm trong lá.
Trong các sản phẩm nhân tạo, đâu đâu cũng thấy nhôm.
Nhôm dạng bọc gói và đóng gói đặc biệt được ưa chuộng trong sản xuất, vì dễ uốn, dẫn nhiệt và điện.
Nhôm có mặt trong các dụng cụ nấu ăn như màng nhôm lá mỏng và chảo. Vì nhôm hòa tan dễ dàng hơn trong dung dịch acid, khi màng nhôm được nấu với các sản phẩm có tính axit như cà chua, nó có thể tạo ra hàm lượng nhôm cao hơn trong thực phẩm.
Nhôm kích thích hệ thống miễn dịch, gây độc và kích thích các tế bào miễn dịch cụ thể, tạo ra phản ứng miễn dịch mạnh hơn. Do đó, nhôm được thêm vào một số loại vaccine như chất bổ trợ để tăng cường hiệu quả.
Vaccine có chứa nhôm bao gồm vaccine viêm gan A và B, vaccine bạch hầu-uốn ván, sởi, quai bị, sởi Đức, rubella, thủy đậu, rotavirus, và nhiều loại vaccine khác.
Sự hiện diện của phân tử nhôm có thể khiến thuốc phóng thích hơn và thậm chí nhôm còn có tính trung hòa acid. Do đó, nhôm cũng được tìm thấy trong các sản phẩm dược phẩm phổ biến như aspirin, thuốc kháng acid, chất kết dính phosphate (phosphate binders) và dịch thẩm phân.
Trong các sản phẩm mỹ phẩm, nhôm có trong kem chống nắng khoáng chất để ngăn ngừa mất titanium, hóa chất giúp da chống lại ánh nắng mặt trời. Nhôm có mặt trong nhiều nhãn hiệu trang điểm nổi tiếng, được dùng làm chất chống mồ hôi trong chất khử mùi và cũng được thêm vào các loại kem dưỡng da mặt và dưỡng thể dạng nhũ hoá.
Nhôm phức hợp cũng được sử dụng rộng rãi trong thực phẩm chế biến. Nó là chất tạo bọt trong muối nở và chất nhũ hóa trong nhiều loại phô mai chế biến.
Theo Cơ quan Đăng ký Chất độc và Bệnh tật, một người khỏe mạnh có thể chịu đựng được từ 5 đến 10 miligam nhôm trên mỗi kg cân nặng.
Vaccine thường chứa không quá 0.85mg nhôm/liều và một số nghiên cứu chỉ ra rằng cơ thể loại bỏ hầu hết chất này.
Tuy nhiên, khi bạn sử dụng nhiều sản phẩm có chứa nhôm, lượng nhôm mà bạn phơi nhiễm có thể vượt quá khả năng bài tiết của cơ thể—khi đó nhôm có thể tích tụ và các triệu chứng nhiễm độc bắt đầu biểu hiện.
Cơ thể con người chúng ta không sử dụng nhôm. Nhôm thực sự làm xáo trộn và cản trở dòng chảy tự nhiên của cơ chế cơ thể.
Nhôm và bệnh Alzheimer
Năm 1965, giả thuyết cho rằng nhôm góp phần gây ra bệnh Alzheimer được khởi xướng bởi một nghiên cứu của Ba Lan.
Giả thuyết cho rằng Alzheimer là bệnh của tuổi già vì người càng lớn tuổi, tiếp xúc với nhôm càng nhiều thì lượng nhôm tích lũy càng nhiều.
Ba nhà khoa học phát hiện ra rằng việc chích nhôm vào não chuột khiến các sợi trong tế bào thần kinh của chúng bị thoái hóa và hình thành các cấu trúc giống như cấu trúc thường thấy ở bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer.
Một nghiên cứu khác năm 1973 đã thu thập các mẫu não của những bệnh nhân Alzheimer đã người tử vong. Nghiên cứu cho thấy hàm lượng nhôm trong não của những bệnh nhân này cao hơn so với những bệnh nhân tử vong vì các bệnh khác.
Sự kiện Camelford
Vào tháng 07/1988, 20 tấn nhôm sunfat vô tình được thải vào bể chứa nước uống cung cấp cho thị trấn Camelford, Anh. Sự cố này đã làm tăng nồng độ nhôm trong nước uống lên hơn 500 lần so với giới hạn cho phép, và kết quả là 20,000 người đã tiếp xúc với nồng độ nhôm rất cao từ nguồn cung cấp nước của họ.
Chính phủ Vương quốc Anh đã theo dõi dân số trong nhiều năm, dự định điều tra các tác động sức khỏe của ô nhiễm nước. Chính phủ sau đó kết luận rằng không có bằng chứng nào liên quan đến vụ tai nạn Camelford năm 1988 với những ảnh hưởng sức khỏe sau này.
Tuy nhiên, vài nghiên cứu được công bố vài năm sau đó đã mô tả sự suy giảm nhận thức và thần kinh của một số người dân trong thị trấn.
Một ví dụ kể về một người đàn ông 49 tuổi bắt đầu bị mất trí nhớ sáu năm sau vụ tai nạn. Các vấn đề về trí nhớ của ôngấy trở nên tồi tệ hơn sau 5 năm cùng với chứng khó đọc, ảo giác và giật mình. Ông qua đời ở tuổi 69. Phân tích khám nghiệm tử thi cho thấy ông mắc vô số bệnh thoái hóa thần kinh, bao gồm cả bệnh Alzheimer và nồng độ nhôm cao cũng được tìm thấy ở vùng phía sau của não.
Nhôm là một chất độc thần kinh
Nhôm chủ yếu ở dạng hợp chất như nhôm hydroxide và nhôm citrate, chứ không phải là kim loại nguyên chất.
Khi nhôm ở trong các hợp chất này, kim loại có điện tích cộng 3 có tính phản ứng cao, có tính oxy hóa cao và có khả năng phá hủy.
Trong hệ thống thần kinh trung ương, nhôm kích hoạt các gen làm giảm năng lượng và hoạt động của thần kinh, tăng viêm nhiễm, tăng rối loạn chức năng thần kinh và thậm chí tử vong.
Nhôm cũng làm giảm sự phát triển thần kinh và có thể đẩy nhanh quá trình hình thành protein tau thường thấy trong bệnh Alzheimer.
Nhôm có thể phản ứng với lipid hình thành rào chắn của tế bào khiến cho lipid bị thoái hóa. Những tế bào này sau đó mất đi ranh giới của chúng và trở nên căng thẳng, bị viêm và có khả năng chết. Điều này đã được chứng minh trong các nghiên cứu về tế bào não của chuột cũng như của con người.
Một nghiên cứu khác cho thấy nhôm cũng có khả năng gây hại cho “nhà máy năng lượng” của con người.
Nhôm cũng gây ra những thay đổi đối với DNA của con người, khiến các tế bào này dễ bị ung thư.
Hơn nữa, nhôm đã được chứng minh là gây viêm thần kinh bằng cách tiêu diệt và kích hoạt tế bào hình sao. Đây là những “người dọn dẹp bộ não”, dọn dẹp các mảnh vụn và tế bào thần kinh chết. Tuy nhiên, khi hoạt động quá mức, chúng bắt đầu phá hủy tế bào thần kinh.
Không có gì ngạc nhiên khi việc tiếp xúc với nhôm có liên quan đến mất trí nhớ và suy giảm nhận thức.
Nhôm có liên quan chặt chẽ với chứng sa sút trí tuệ và viêm não (viêm dây thần kinh) do độc tính nhôm từ quá trình lọc máu ở bệnh nhân suy thận.
Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên hệ giữa việc tiếp xúc với nhôm với các bệnh thoái hóa thần kinh khác như bệnh Parkinson triệu chứng là người bệnh bị run rẩy tay chân, và vận động khó khăn) và bệnh xơ cứng teo cơ bên, mặc dù nghiên cứu vẫn còn mâu thuẫn.
Các triệu chứng của “chứng sa sút trí tuệ rất sớm” bao gồm hay quên, mất bình tĩnh vì người bệnh không nhận ra có vấn đề, đồng thời không muốn tìm kiếm sự điều trị y tế. (Ảnh: Shutterstock)
Triệu chứng nhiễm độc nhôm và chân đoán
Các dấu hiệu thần kinh phổ biến của ngộ độc nhôm bao gồm nhầm lẫn, co giật, yếu cơ và các vấn đề về giọng nói. Ở trẻ em, nhiễm độc nhôm còn có triệu chứng tăng trưởng chậm.
Trong những trường hợp cực đoan, những người trung niên đã báo cáo về tình trạng sương mù não và các triệu chứng giống như chứng sa sút trí tuệ, vốn được coi là bất thường đối với nhóm tuổi này.
Tuy nhiên, những triệu chứng này cũng thường gặp trên nhiều bệnh. Bác sĩ nội khoa và tích hợp, Tiến sĩ Ana Mihalcea nói với The Epoch Times rằng các bác sĩ có thể khó chẩn đoán xác định nhiễm độc nhôm.
Mihalcea cho biết: “Một trong những vấn đề với kim loại nặng là chúng có tác dụng hiệp đồng, độc hại. Chúng ta không chỉ tiếp xúc với nhôm, chúng ta còn tiếp xúc với chì, asen, cadmium, tất cả những thứ khác.”
“Nếu sau đó bạn nhận được một lượng lớn hơn và nhiều hơn trong cơ thể, thì độc tính sẽ tăng lên.”
Mihalcea nói rằng nhiều bệnh nhân của bà trình bày với bà một dạng nhiễm độc kim loại sẽ có xét nghiệm hàm lượng kim loại độc hại cao trong máu nói chung.
Trên thực tế, các kim loại độc hại như asen và chì vẫn còn khá phổ biến trong đất và nước. Một số đường ống nước được sử dụng ở Hoa Kỳ vẫn được làm bằng chì và những ngôi nhà được xây dựng trước những năm 1970 cũng có thể sử dụng sơn có chì.
Vì chì và nhôm đều là chất độc thần kinh nên hai kim loại độc hại này có thể phối hợp với nhau để làm trầm trọng thêm tác động của nhau.
Thải độc nhôm bằng cách nào?
Một lựa chọn điều trị phổ biến đối với ngộ độc nhôm là liệu pháp chelation.Bệnh nhân được cho dùng thuốc, dưới hình thức là thuốc viên hoặc thuốc truyền tĩnh mạch. Thuốc này sẽ liên kết với các kim loại độc hại. Thuốc và kim loại sau đó được bài tiết qua nước tiểu.
Liệu pháp chelation đi kèm với một số tác dụng phụ, bao gồm nóng rát tại chỗ tiêm, buồn nôn, nhức đầu và sốt.
Vì chelation cũng có thể được sử dụng để loại bỏ các khoáng chất thiết yếu đạt đến mức độc hại, nên liệu pháp chelation cũng có thể làm giảm các khoáng chất có lợi.
Một số thực phẩm trong chế độ ăn kiêng có thể là chất chelation tự nhiên, bao gồm các loại rau có chứa lưu huỳnh như bông cải xanh và tỏi. Củ nghệ cũng được cho là có chứa các đặc tính chelation tự nhiên.
Chất xơ không hòa tan như cám lúa mì, rau và ngũ cốc nguyên hạt cũng có thể loại bỏ các kim loại độc hại, vì các nghiên cứu đã chỉ ra rằng mức độ tiêu thụ chất xơ không hòa tan càng cao thì mức độ kim loại độc hại trong máu càng thấp.
Uống nước khoáng giàu silica cũng là một cách khác để loại bỏ nhôm khỏi cơ thể.
Mặc dù khó có thể tránh được nhôm và nhiều kim loại độc hại, nhưng mọi người có thể cố gắng giảm mức độ phơi nhiễm tổng thể bằng cách thực hiện các bước để tránh các sản phẩm có chứa nhôm và chọn các sản phẩm không có nhôm.
Uống các chất bổ sung như vitamin A, C và D để hỗ trợ hệ vi sinh vật đường ruột cũng có thể hữu ích.
Thiên Vân biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times